Saturday, April 11, 2015

Danh tướng Nguyễn Cảnh Chân

Thứ Bảy, ngày 11.04.2015
Kính thưa quý thính giả, sử Việt ghi nhận Nguyễn Cảnh Chân là danh tướng chống quân Minh đời Hậu Trần, bị gièm pha, sàm tấu và bị giết oan nên nhà Hậu Trần bị quân nhà Minh đánh bại năm 1413. Trong tiết mục “Danh Nhân Nước Việt” tuần này, chúng tôi xin gửi đến quý thính giả bài “Danh Tướng Nguyễn Cảnh Chân”, của Việt Thái qua giọng đọc của Hoài Phương để kết thúc chương trình phát thanh tối hôm nay.
Nguyễn Cảnh Chân sinh năm 1355 tại làng Ngọc Sơn, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An, Việt Nam. Ông là danh tướng chống quân Minh đời Hậu Trần trong lịch sử Việt Nam.
Trước đó, ông nắm chức An phủ sứ Hóa Châu (Thừa Thiên - Huế) trong khi binh quyền nhà Trần nằm trong tay Hồ Quý Ly. Năm 1400, Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần lập ra nhà Hồ. Không lâu sau, Hồ Quý Ly nhường ngôi cho con là Hồ Hán Thương và lên làm Thái thượng hoàng.
Năm 1402, để củng cố phía Nam, Hồ Quý Ly cho lập ra 4 châu mới chiếm của Chiêm Thành gồm các châu: Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa và đặt lộ Thăng Hoa để thống nhất cả 4 châu, cử Nguyễn Cảnh Chân làm An phủ sứ lộ Thăng Hoa. Theo sử sách, hai họ nhà Nguyễn và Đặng rất thân nhau nên Nguyễn Cảnh Chân và Đặng Tất càng thân thiết và có uy tín lớn nhất trong vùng Nghệ An.
Năm 1406, Trần Thiêm Bình mạo xưng là con cháu nhà Trần, sang tố cáo với nhà Minh việc nhà Hồ đoạt ngôi nhà Trần. Minh Thành Tổ sai quân đưa Trần Thiêm Bình về nước để giành quyền bính. Hồ Hán Thương sai Nguyễn Cảnh Chân dâng biểu với nhà Minh và xin đón Trần Thiêm Bình về nước, tôn lên làm chúa. Vua nhà Minh sai Niếp Thông đem tờ sắc sang dụ Hồ Hán Thương rằng: "Nếu quả đón Thiêm Bình về tôn làm chúa, thì sẽ ban cho khanh tước thượng công và phong cho một quận lớn".
Nhưng vào tháng 4 năm 1406, khi quân Minh đưa Trần Thiêm Bình trở về nước, Hồ Hán Thương sai quân đón đánh, bắt giết Trần Thiêm Bình.
Lấy cớ nhà Hồ không tuân chỉ, vào cuối năm 1406, nhà Minh mang đại quân sang xâm lược nước Nam. Cha con Hồ Quý Ly thất bại trong việc chống trả và bị bắt mang về Tàu.
Tháng 11 năm 1407, tôn thất nhà Trần là Trần Ngỗi xưng đế ở Mô Độ (Ninh Bình), tức Giản Định Đế, lập ra nhà Hậu Trần, khởi binh chống quân Minh. Quân Hậu Trần mới vừa tập họp thì bị quân Minh đánh bại phải chạy vào Nghệ An.
Nguyễn Cảnh Chân cùng Đặng Tất và một số tướng lãnh thuộc lực lượng của Trần Nguyệt Hồ - người vừa bị quân Minh đánh bại ở Đông Triều - cũng mang quân đến gia nhập, giúp cho khí thế quân Hậu Trần tăng mạnh. Giản Định Đế phong Đặng Tất làm Quốc công, Nguyễn Cảnh Chân làm Đồng Tri khu mật Tham mưu quân sự. Từ đó, Đặng Tất làm tướng đánh trận ở ngoài, Nguyễn Cảnh Chân đóng vai trò Quân sư cho vua Giản Định Đế.
Đầu năm 1408, Giản Định Đế điều quân đánh Nghệ An và Diễn Châu, tiêu diệt lực lượng của hai nhà quý tộc nhà Trần cũ là Trần Thúc Dao và Trần Nhật Chiêu, những người đầu hàng quân Minh và được giao cho trấn giữ hai châu này.
Tướng Minh là Trương Phụ liền mang đại quân vào chiếm lại Diễn Châu. Quân Hậu Trần không chống nổi nên rút về Hóa châu. Bình định xong vùng Giao Chỉ, Trương Phụ rút về Đông Quan (Hà Nội ngày nay), sau đó mang quân về nước.
Tháng 5 năm 1408, Giản Định Đế từ Hóa Châu tiến quân ra đánh chiếm lại Nghệ An, sau đó đánh chiếm Tân Bình do Phạm Thế Căng, một viên tướng người Việt theo quân Minh, đang trú giữ. Sau chiến dịch này, quân Hậu Trần làm chủ từ Nghệ An tới Thuận Hóa và
Giản Định Đế bắt đầu tiến quân ra Bắc. Đặng Tất huy động 5 lộ quân từ Thanh Hóa đến Thuận Hóa, tiến ra Trường Yên (Nam Định), chia đường đánh đồn Bình Than, cửa Hàm Tử, chận đường qua lại ở Tam Giang và đánh phá ngoại vi Đông Quan.
Nhà Minh liền sai Mộc Thạnh, Lưu Tuấn mang 4 vạn quân sang tiếp viện. Mộc Thạnh họp với Lữ Nghị ở Đông Quan, tập trung ở bến Bô Cô (Nam Định).
Ngày 30 tháng 12 năm 1408, quân Hậu Trần đánh bại quân Minh trong một trận chiến oanh liệt, giết chết Thượng thư Bộ binh Lưu Tuấn, Đô đốc Lữ Nghị, Lưu Dục và Đô chỉ huy sứ Liễu Tông cùng 4 vạn quân Minh. Mộc Thạnh dẫn tàn quân chạy vào thành Cổ Lộng.
Giản Định Đế muốn thừa cơ đánh lấy Đông Quan, nhưng Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân đều có chủ trương tiêu diệt tàn quân địch cho xong rồi mới tiến quân.
Vua tôi bàn mãi chưa quyết định được thì viện binh quân Minh ở Đông Quan đã tiếp ứng cho Mộc Thạnh chạy về cố thủ Đông Quan. Đặng Tất chia quân vây thành, trong khi Nguyễn Cảnh Chân gửi hịch đi các lộ kêu gọi dân chúng hưởng ứng đánh quân Minh. Nhưng do bất đồng về sách lược, Giản Định Đế không bằng lòng với Nguyễn Cảnh Chân và Đặng Tất.
Tháng 3 năm 1409, Giản Định Đế đóng ở Hoàng Giang, Nguyễn Quỹ cùng Nguyễn Mộng Trang mật tấu là:"Tham mưu Nguyễn Cảnh Chân và Quốc công Đặng Tất chuyên quyền bổ nhậm quan lại, nếu không tính sớm thì sau này khó lòng kềm chế".
Nghe theo lời gièm pha, vua Giản Định Đế sợ uy tín của hai người quá cao và nghi ngờ hai tướng Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân làm phản nên triệu về triều đình, sau đó giết chết.
Hai người con của hai ông là Đặng Dung và Nguyễn Cảnh Dị phẫn nộ khi thấy cha bị giết oan, rời bỏ quân Hậu Trần, và lập một dòng dõi nhà Trần là Trần Quý Khoách làm vua, tức Trùng Quang Đế. Quân Hậu Trần của Giản Định Đế mất đi hai văn thần võ tướng tài ba, thế lực dần dần suy yếu và cuối cùng bị quân Minh đánh bại hoàn toàn vào năm 1413.
* * *
Như đức Nguyễn Trãi đã viết trong Bình Ngô Đại Cáo sau khi đánh đuổi quân Minh ra khỏi bờ cõi:
"Thế nước có lúc thịnh lúc suy,
Nhưng hào kiệt thời nào cũng có".
Chắc chắn khi viết những câu này, vị quan trẻ tuổi của thời mạt Trần cũng cảm khái về sự trung dũng của những người như Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân. Họ là những nhân tài xuất hiện trong lúc đất nước rên siết dưới gót giày xâm lược của giặc Tàu, đã gây tổn thất cho hàng vạn tướng sĩ quân Minh. Nhưng họ đã chết oan uổng chỉ vì lời gièm pha của bọn nịnh thần bên cạnh một hôn quân, khiến cho đạo quân kháng chiến mà họ dốc sức xây dựng đã tan rã, kéo dài sự đô hộ của quân Minh thêm nhiều năm nữa, cho đến khi có cuộc khởi nghĩa Lam Sơn của đức Lê Lợi.
Thế nhưng công lao của cha con Nguyễn Cảnh Chân - Nguyễn Cảnh Dị không thể bị quên lãng. Vì họ là một trong những biểu tượng cho truyền thống chống ngoại xâm của dân quân Đại Việt. Họ chính là niềm hy vọng trong giờ phút đen tối của đất nước vào lúc đó, và là tấm gương cho thế hệ hiện nay trong bối cảnh tập đoàn lãnh đạo CSVN đang hiến dâng mảnh giang sơn gấm vóc VN cho đế quốc Tàu Cộng
Việt Thái

No comments:

Post a Comment