Thứ Hai, 27.04.2015
Sau ngày quốc hận 30 tháng Tư, cộng
đồng người Việt hải ngoại là một thành trì chống cộng vững chắc và tích
cực trong công tác chuyển lửa tự do về quê nhà. Tuy nhiên số ngoại tệ
chuyển về Việt Nam, một phần kéo dài sự sống của chế độ. Mời quý thính
giả đài ĐLSN nghe phần Bình Luận của Nguyễn Hưng Quốc với tựa đề: "
Tháng tư từ hai góc nhìn sẽ được Hướng Dương trình bày để kết thúc
chương trình phát thanh ĐLSN tối hôm nay.
Lại tháng Tư. Lại thấy trên báo chí và các mạng lưới truyền thông xã
hội trên internet những bài viết về một trong những biến cố lớn nhất
trong lịch sử Việt Nam hiện đại: tháng Tư 1975. Tuy nhiên, năm nay, các
bài viết, đặc biệt ở hải ngoại, dường như khác những năm trước. Trước,
người ta chỉ tập trung vào sự sụp đổ của chính quyền miền Nam và những
hậu quả của nó. Năm nay, bên cạnh cái nhiều người gọi là ngày "đổi đời"
ấy, người ta còn tập trung vào một khía cạnh khác: 40 năm người Việt
định cư ở nước ngoài.
Thì cả hai đều có quan hệ nhân quả với nhau thôi: Bởi vì chính quyền
miền Nam sụp đổ nên mới có hàng triệu người liều mình vượt biên hay vượt
biển để ra đi tìm tự do. Tuy nhiên, khi nhấn mạnh đến khía cạnh sụp đổ,
người ta chỉ thấy những bi kịch; khi chú ý đến khía cạnh định cư ở nước
ngoài, người ta thấy những khía cạnh tích cực và lạc quan hơn. Cho nên,
cùng một biến cố, tuỳ theo góc nhìn, người ta thấy những mảng màu khác
hẳn nhau.
Chỉ nhìn vào khía cạnh "thua trận", sau việc mất chính quyền là nạn
độc tài và tàn bạo với cảnh hàng chục ngàn người bị lùa vào các trại lao
động cải tạo, cảnh đánh tư sản mại bản, cảnh xua dân chúng vào các khu
kinh tế mới đầy khổ ải, cảnh con cái của những người từng làm việc cho
chế độ cũ bị kỳ thị ngay cả trong việc học vấn, và cuối cùng, cảnh hàng
triệu người bỏ nước ra đi, trong đó có cả hàng trăm ngàn người bị hải
tặc hoặc bị đắm tàu bỏ xác ngoài biển khơi. Ngày ấy, nói theo Võ Văn
Kiệt, có triệu người vui và triệu người buồn. Nói thế là hơi nhẹ. Bởi
đâu phải chỉ "buồn". Người ta còn đau khổ, thống khổ vì những mất mát
không thể bù đắp được. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều người gọi đó là
ngày quốc hận.
Sau ngày "quốc hận" ấy là những ngày tháng tang thương bi thảm. Về
phương diện kinh tế, đời sống mọi người càng ngày càng cùng cực, ngay cả
lúa gạo cũng không đủ ăn, phải ăn độn khoai, độn sắn và ăn cả bo bo từ
năm này sang năm khác. Về phương diện xã hội, với chính sách hộ khẩu và
sổ lương thực, mọi người bị mất cả các quyền tự do cư trú và đi lại. Về
phương diện tôn giáo, người ta cũng không được quyền tự do thờ phượng:
các nhà tu đào tạo tu sĩ bị đóng cửa, việc đi chùa hay đi nhà thờ cũng
gặp rất nhiều khó khăn. Về phương diện chính trị, tất cả các quyền căn
bản của con người, từ quyền tự do tư tưởng đến tự do ngôn luận, từ quyền
tự do đi lại đến tự do hội họp, từ quyền tự do biểu tình đến quyền tự
do lập đảng phái... tất cả đều bị bóp nghẹt.
Bên cạnh những sự "đổi đời" như thế, có một khía cạnh khác năm nay
mới được chú ý nhiều: cộng đồng đông đúc với khoảng trên bốn triệu người
Việt sống ở rải rác trên 100 quốc gia khác nhau kể từ sau năm 1975.
Nhìn từ góc độ di dân học, cộng đồng người Việt ở hải ngoại có mấy đặc điểm nổi bật:
Thứ nhất, trong khi các làn sóng tị nạn trên thế giới phần nhiều có
tính chất khu vực, chủ yếu di cư đến một quốc gia láng giềng nào đó (ví
dụ từ Iraq chạy sang Saudi Arabia, Jordan hay Turkey; từ Afghanistan
chạy sang Pakistan), làn sóng tị nạn của người Việt, ngược lại, có tính
chất toàn cầu: sau khi đến một quốc gia láng giềng, họ được phép tái
định cư ở một quốc gia thứ ba, hầu hết là các nước Tây phương, vừa xa
xăm vừa xa lạ về văn hoá (trong đó, đông nhất là ở Mỹ với gần 2 triệu;
kế tiếp là Pháp với khoảng 300.000; Úc và Canada mỗi nơi trên 200.000
người).
Thứ hai, ở các quốc gia ấy, người Việt thường có xu hướng sống tập
trung ở các tiểu bang hoặc các thành phố lớn và đông dân nhất.
Thứ ba, mặc dù cộng đồng người Việt hải ngoại được hình thành từ
nhiều nguồn khác nhau, từ di tản đến vượt biên, từ diện HO đến diện bảo
lãnh gia đình, trên căn bản, yếu tố chính trị vẫn là nòng cốt: đó là một
cộng đồng tị nạn.
Khi nhìn lại 40 năm sống ở hải ngoại, hầu hết các cơ quan truyền
thông đều nhấn mạnh đến những thành tựu, từ lãnh vực khoa học, giáo dục
đến các lãnh vực chính trị, kinh tế và xã hội. Ở đâu cũng có những điểm
son rất đáng tự hào.Phần lớn các tờ báo bằng tiếng Việt ở hải ngoại đều
dành một số trang để đăng tải các bài viết ca tụng những người thành
đạt. Ở đây, tạm gác qua một bên những cá nhân xuất sắc, chúng ta chỉ
nhìn cộng đồng người Việt như một tập thể. Với tư cách tập thể, trong
quan hệ với Việt Nam, cộng đồng người Việt ở hải ngoại có hai đóng góp
nổi bật nhất.
Thứ nhất, về phương diện kinh tế, số tiền người Việt ở nước ngoài gửi
về Việt Nam hằng năm là một nguồn doanh thu quan trọng cho Việt Nam.
Chỉ tính qua con đường gửi tiền chính thức, số tiền người Việt gửi về
cho thân nhân trong nước vào năm 2009 là 6.2 tỉ Mỹ kim; năm 2010 là 8.1
tỉ; năm 2011 là 9 tỉ và năm 2013 là 11 tỉ biến Việt Nam thành một trong
10 quốc gia nhận kiều hối cao nhất trên thế giới.
Thứ hai, về phương diện chính trị, cộng đồng người Việt ở hải ngoại
tồn tại như một lực lượng đối kháng chế độ độc tài trong nước. Cái gọi
là "lực lượng" này phần lớn khá tản mác và tự phát, không có lãnh tụ và
cũng không có phương hướng hoạt động chung. Tuy nhiên, đóng góp của họ
đối với cuộc tranh đấu cho dân chủ ở trong nước không nhỏ.
Hai khía cạnh vừa nêu mâu thuẫn với nhau: Một mặt, về chính trị, cộng
đồng người Việt ở hải ngoại phản đối gay gắt chính quyền trong nước;
mặt khác, về tài chính, qua việc chuyển tiền về cho thân nhân trong
nước, họ góp phần làm cho chính quyền Việt Nam giàu có hơn và có nhiều
điều kiện để trấn áp dân chúng hơn.
Nghịch lý ấy ai cũng biết nhưng không phải dễ giải quyết.
Nguyễn Hưng Quốc
No comments:
Post a Comment