Thứ Bảy 14.09.2013     
Kính thưa quý thính giả, Đức Phạm 
Công Tắc tự là Ái Dân, biệt hiệu Tây Sơn Đạo, là một trong những người 
có công lớn trong việc hình thành, xây dựng, phát triển và kiện toàn đạo
 Cao Đài. Trong tiết mục "Danh nhân nước Việt" tối nay, chúng tôi xin 
gửi đến quý thính giả bài "Đức Hộ Pháp Cao Đài giáo" của Việt Thái qua 
giọng đọc của Tam Thanh.
Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc sinh ngày 21/6/1890 tại làng Bình Lập, quận
 Châu Thành, tỉnh Tân An (nay là tỉnh Long An). Cha là ông Phạm Công 
Thiện, mẹ là bà La Thị Đường. Ông được rửa tội tại nhà thờ ở Tây Ninh 
vào năm 1900.
Năm 1907, ông đậu bằng Thành Chung. Trong thời gian học trung học, 
ông tham gia vào phong trào Đông Du. Năm 1908, ông được Hội Minh Tân, 
một tổ chức của phong trào Đông Du, chuẩn bị đưa đi nước ngoài, nhưng kế
 hoạch bị bại lộ nên phải hủy bỏ.
Vì bị nhà cầm quyền Pháp theo dõi gây khó dễ, nên ông phải bỏ học và 
làm việc cho một hãng buôn. Thời gian này, với bút hiệu Ái Dân, ông viết
 bài "cổ vũ tinh thần dân tộc" cho các tờ báo như Công Luận và Chuông Rè
 của Nguyễn An Ninh. Tiếng nói Tự do và Lục tỉnh Tân văn của ông Pierre 
Jeantet và ông Trần Chánh Chiếu. Khi ông Chiếu bị bắt, tờ báo đình bản, 
ông trở về Tân An.
Đầu thập niên 1920, phong trào Thông Linh học bắt đầu phổ biến tại 
Nam Kỳ. Vào khoảng tháng 7 năm 1925, ông cùng với các bạn gốc Tây Ninh 
là Cao Quỳnh Cư và Cao Hoài Sang cùng thử nghiệm xây bàn cầu cơ và đến 
giữa tháng 12, được Thượng Đế xưng danh Cao Đài lần đầu tiên và dạy Đạo,
 để chuẩn bị ra mắt một tôn giáo mới tại Việt Nam. Nhóm này phát triển 
thêm nhiều người, quy tụ nhiều nhà khoa bảng trí thức thời bấy giờ, 
trong đó có ông Lê Văn Trung, cựu Nghị viên Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ.
Ngày 21/2/1926, trong một buổi cầu cơ tại nhà ông Vương Quang Kỳ, một
 bài thơ được lưu truyền là cơ giáng của Thượng đế, trong đó có tên của 
13 chức sắc với ông Ngô Văn Chiêu được tôn là Anh Cả.
Trong một buổi hầu cơ ngày 17/4/1926, ông Phạm Công Tắc cùng với các 
ông Lê Văn Trung, Cao Quỳnh Cư và bà Nguyễn Hương Hiếu, đã nhận cơ 
giáng, chuẩn bị đạo phục Giáo Tông cho ông Ngô Văn Chiêu. Nhưng ông 
Chiêu từ chối, chọn ra một số ít tín đồ để tu theo Nội giáo Tâm truyền, 
thành lập hệ phái Cao Đài Chiếu Minh.
Do vậy, hai vị Đầu sư Lê Văn Trung và Lê Văn Lịch bắt đầu đảm trách 
việc của Hội Thánh, phát triển thêm 6 đàn cầu cơ ở Nam Kỳ và thu nạp 
thêm tín đồ.
Ngày 29/9/1926, ông Phạm Công Tắc cùng 246 tín đồ lập tờ tịch đạo 
(tức danh sách tín đồ), gửi Thống đốc Nam Kỳ ngày 7/10/1926. Từ đó, các 
tín đồ chia làm 3 nhóm đi phổ độ khắp Nam Kỳ Lục tỉnh.
Ngày rằm tháng 10 năm Bính Dần, ông cùng với những vị đệ tử đầu tiên 
của Đức Cao Đài thọ phong phẩm vị, được Ơn Trên dìu dẫn thiết Đại lễ, 
long trọng chính thức Khai Đạo Cao Đài ra mắt với tất cả nhân sanh tại 
Từ Lâm Tự thuộc tỉnh Tây Ninh.
Năm 1927, nhà cầm quyền chuyển ông đi Nam Vang. Tại đây, ông chiêu 
nạp thêm tín đồ và phong phẩm vị theo cơ bút do các đấng thiêng liêng 
tuyển chọn, từ đó hình thành Cơ quan Truyền giáo Hải ngoại.
Do hoạt động tích cực của ông và Hội Thánh Ngoại Giáo, có ảnh hưởng 
đến một số nhân sĩ trí thức và quan chức Pháp, nên tháng 2 năm 1932, 
Quốc hội Pháp đồng ý cho đạo Cao Đài hoạt động trên toàn cõi Đông Dương.
Sau khi Quyền Giáo tông Thượng Trung Nhựt mất năm 1934, nhiều chức 
sắc cao cấp của Tòa Thánh ly khai và thành lập những hệ phái độc lập. 
Nhằm ngăn chặn sự tan rã của Hội Thánh, các chức sắc còn lại đã tổ chức 
Hội Quyền Vạn Linh gồm Nhơn Sanh và Hội Thánh nhóm họp vào 3 ngày 8, 9, 
10 tháng 11 năm 1935, đồng cử ông vào chức vị Chưởng quản Nhị Hữu hình 
đài (tức kiêm quyền Giáo tông của Cửu Trùng Đài). Trên thực tế, ông trở 
thành vị lãnh đạo tối cao, cầm quyền Chánh Trị Đạo của Tòa Thánh Tây 
Ninh cho đến ngày quy Thiên.
Năm 1941, nhà cầm quyền Pháp đàn áp, bắt giữ những người bị tình nghi
 và đã vào tận Tòa Thánh Tây Ninh bắt đức Hộ pháp Phạm Công Tắc và 5 
chức sắc đày sang đảo Madagascar.
Năm 1946, Pháp trả tự do cho ông, đổi lại điều kiện là các tín đồ Cao
 Đài sẽ không tấn công người Pháp. Với quan điểm chống chủ nghĩa vô thần
 CS, ông chấp thuận điều kiện này và từ đó ông lo việc kiện toàn công 
trình xây Toà Thánh và các Thánh Thất, cũng như xây dựng thêm các cơ sở 
Phước Thiện, Giáo Dục, các Trung tâm Tu tập cho tín đồ bên trong Toà 
Thánh.
Cuộc đời của Hộ Pháp Phạm Công Tắc hiến dâng cho đạo Cao Đài suốt 31 
năm, kể từ lúc sơ khởi nền Đạo năm 1925 cho đến năm 1956 (năm ông lưu 
vong sang đất Miên vì bất đồng chánh kiến với chính phủ Ngô Đình Diệm). 
Ông được xem là người trẻ tuổi được phẩm vị cao quý nhất của Hiệp Thiên 
Đài (37 tuổi đắc phong Hộ Pháp) và kể từ đó, ông xả thân hành đạo cho 
đến khi sức tàn, lực kiệt, trở về thiêng liêng vị.
Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc quy Thiên lúc 1giờ 30 chiều ngày 17/5/1959, tại Chùa Tual Svay Prey ở Nam Vang.
Miền Nam đã sản sinh ra hai nhà lãnh đạo tôn giáo nổi tiếng vì tấm 
lòng yêu nước như đức Huỳnh Phú Sổ và đức Phạm Công Tắc. Điều đáng quý 
trọng là hai người tâm đức đó, đã xuất hiện và cống hiến năng lực của 
mình trong thời điểm đen tối của đất nước, giúp người dân đứng vững 
trước cơn bão thực dân và cộng sản.
Đức Phạm Công Tắc không vì đạo mà quên đời. Ông vừa đấu tranh với 
thực dân Pháp để giành độc lập cho dân tộc, vừa thượng hướng tâm linh 
cho người dân Việt Nam trong thời điểm đất nước đầy sóng gió.
Ông chính là một trong những tấm gương sáng cho người Việt, đặc biệt 
là trong lúc xã hội VN đang lâm vào cơn khủng hoảng đủ mọi phương diện 
như hiện nay.
Với công lao đóng góp của ông cho đạo Cao Đài, Hiền Tài Trần Văn Rạng
 (Cao học về Sử học, Đại Học Văn Khoa Sài Gòn) đã tóm lược cuộc đời ông 
trong quyển "Chân dung Hộ Pháp Phạm Công Tắc" bằng câu:
"Tâm vô quái ngại, đại hùng, đại lực, đại từ-bi".
 
No comments:
Post a Comment