Thứ Bảy, ngày 07.09.2013   
Tiếp theo đây, như thường lệ vào 
mỗi tối Thứ Bảy, mời quý thính giả theo dõi chuyên mục NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA 
CHÚNG TA do đặc phái viên HẢI NGUYÊN phụ trách điều hợp, và bây giờ là 
(phần 2) liên quan đến Nền Giáo Dục Hậu Cộng Sản tại Việt Nam, với vị 
khách mời khả kính là Gs. Phạm Cao Dương. Mời quý thính giả cùng theo 
dõi.
Hải Nguyên: Thưa Giáo Sư, kỳ trước chúng ta đã 
thảo luận về một nền giáo dục mới thời Hậu Cộng Sản, trong đó Giáo Sư có
 nhắc sơ qua đến một số những tệ nạn cần phải loại trừ. Hôm nay Giáo Sư 
có thể cho biết chi tiết hơnnhững tệ trạng đó là những tệ trạng gì, được
 không ạ?
GS Phạm Cao Dương: Tôi xin được thưa ngay là tinh thần nô lệ, thói độc tôn, ích kỷ và tính dễ dãi "thế nào xong thôi".
Trước hết là tinh thần nô lệ. Tinh thần này bắt nguồn từ hoàn cảnh
nước nhà bị ngoại bang đô hộ quá lâu và quá nhiều lần. Trong hoàn 
cảnh này, người ta không thể nào không tuân phục kẻ địch , không làm 
theo kẻ địch. Trước kia, trong thời Bắc thuộc chúng ta đã phải làm như 
vậy, cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 chúng ta lại phải làm như vậy. Những 
lời kêu gọi của các Cụ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh và các Cụ trong 
Đông Kinh Nghĩa Thục chỉ lả những tiếng kêu trong sa mạc, những đốm lửa 
chập chờn giữa đại dương, để rồi sau đó người ta lại còn chìm đắm hơn 
trong biển đen của Mác, của Lê, của Xít mà vẫn tưởng mình là đỉnh cao 
của trí tuệ loài người. Hậu quả là tinh thần độc lập, tinh thần sáng tạo
 của tuổi tẻ Việt nam đã bị cản trở, nếu không nói là bị hủy diệt ngay 
từ đầu. Trong khi đó, trong các nền giáo dục ở các nước tân tiến hiện 
tại, người ta luôn luôn đề cao điều trong tiếng Anh gọi là "critical 
thinking" mà tôi tạm dịch là suy tư có phê phán ở mọi cấp bậc Lối suy tư
 này luôn luôn được khuyến khích trong cả cách dạy đến cách học, cách 
thi và trong các sách giáo khoa, các bài trắc nghiệm. Tất nhiên là lối 
dạy này và lối học này đòi hỏi là thày trò phải có tự do, dân chủ và do 
đó nó không thể nào có được dưới chế độ Cộng Sản.
Tệ tính thứ hai tôi muốn nói ở đây là tệ tính độc tôn và áp đặt, là 
tự coi mình là nhất, mình là biết hết là bắt người khác phải tuân theo, 
phải nói theo, không được cãi lại, không được nói khác, làm khác. Trong 
nhà, người cha, trong lớp ông thày là nhất, con em, học trò phải nghe 
theo, làm theo; nhiều khi thày nói sai, học trò sửa lại, nhưng thay vì 
sửa lại hay xem lại rồi sau đó sửa thì thày hay cha lại mắng át đi khiến
 học trò, con em phải chấp nhận sư sai lầm, lâu dần thành ù lì, thụ 
động. Từ trong lớp học ra ngoài và lên cao hơn nữa, quốc gia và xã hội. 
Việt nam cái gì cũng có, cái gì cũng nhất,
lãnh đạo cái gì cũng biết, cái gì cũng hay nhưng cuối cùng thì đất 
nước vẫn cứ chậm tiến, lạc hậu, dân chúng vẫn nghèo đói, thất học và 
người cầm quyền đi ra ngoài thì cứ ngửa tay xin viện trợ.
Tệ tính thứ ba là tệ tính dễ dãi, thế nào xong thôi. Trong cuộc sống 
hàng ngày, thế nào xong thôi, nói khác đi là xuề xoà, dễ dãi, dễ tính, 
giản dị, không lôi thôi thường được coi là một tính tốt, nó giúp cho 
ngưòi ta dễ hoà đồng, dễ sống với người khác nhưng chỉ tốt trong giao 
tiếp giữa các cá nhân hay trong một phạm vi nhỏ hẹp. Trong giáo dục và 
rộng ra là trong phạm vi rộng lớn hơn và trong các sinh hoạt quốc gia và
 xã hội, "thế nào xong thôi"là không thể được vì khi nó bị lạm dụng, tệ 
tính này sẽ trở thành tệ tính bôi bác, "dán bùa". Trở lại với giáo dục, 
tôi xin được thưa là giáo dục phải có những quy phạm của nó mà người làm
 thày không thể nào không tuân theo được. Nói tới làm thày là người ta 
nói tới những quan niệm sư phạm, những phương pháp sư phạm, tới "Thánh 
mô, Hiền phạm" là mô phạm và ông thày được xã hội ta xưa quý trọng là vì
 vậy. Đến đây tôi lại nhớ tới nhận xét của một sử gia Mỹ mà tôi quên mất
 tên. Nhận xét này có thể làm nhiều ngưới Việt Nam khó chịu nhưng nó 
không phải là không nói lên sự thật. Nhận xét đó là: "Người Việt Nam chỉ
 có thể khá hơn được nếu bỏ được cái tính thế nào xong thôi." Người thày
 nhất cử, nhất động, từ lời nói đến cử chỉ phải là khuôn mẫu cho học 
trò, ít ra là trong học đường, hay hẹp hơn nữa, trong lớp học. Nói cách 
khác với người thày, mọi chuyện là phải hoàn hảo tối da và thế nào xong 
thôi không thể là một giá trị được. Cứ nhìn vào các chữ viết tay của các
 cụ thuộc lớp tuổi trên dưới 80 trở về trước nguời ta có thể thấy một 
phần. Khôn có những cái thước kẻ dần lên tay người học trò thì không thể
 có những nét chữ đằng tả và đẹp như vậy.
Hải Nguyên: Ngoài ba tệ tính mà Giáo Sư vừa kể, còn những tệ tính nào khác nữa không?
GS Phạm Cao Dương: Tất nhiên là còn tùy theo nhận 
định của từng người, chẳng hạn như không tôn trọng hoặc trốn tránh sự 
thực, cơ hội, chỉ tính chuyện nhất thời... nhưng ba tệ tính mà tôi đã kể
 là quan trọng hơn cả vì theo tôi chúng là chính trong giáo dục.
Hải Nguyên: Bây giờ nói tới những điều cần thiết
 để thực hiện nền giáo dục mới này. Theo Giáo Sư, vì đây là giáo dục 
thời Hậu Cộng Sản nên điều kiện đầu tiên là chế độ Cộng Sản không còn 
nữa. Nhưng theo Giáo Sư ngoài điều kiện này ra còn có thêm điều gì cần 
thiết nữa không?
GS Phạm Cao Dương: Vâng, tất nhiên là còn nhưng vì 
là Hậu Cộng Sản nên điều kiện kiện đầu tiên vẫn là chế độ Cộng Sản phải 
không còn nữa vì còn chế độ Cộng thi tất cả những gì tôi nói trên đây 
đều không thể nào thực hiện được.
 
No comments:
Post a Comment