Thứ Tư, 03.06.2015
Trong cuộc tranh chấp tại Biển
Đông, CSVN chấp nhận rơi vào bẫy sập của Trung Quốc vì họ cam tâm bán
nước hầu bám víu quyền lực chính trị bằng mọi giá. Mời quý thính giả đài
ĐLSN nghe phần Bình Luận của Ngô Nhân Dụng với tựa đề: "Tại sao Trung
cộng dại dột" sẽ được Song Thập trình bày để kết thúc chương trình phát
thanh tối hôm nay.
Vụ phi cơ thám thính P8-A Poseidon của Mỹ bay qua các hòn đảo Trường
Sa mà Trung cộng đang chiếm của nước VN khiến nhiều người đặt câu hỏi:
Khi lập các "đảo nhân tạo" để xây dựng căn cứ quân sự, hải đăng, và phi
trường, Trung cộng khôn hay dại?
Từ năm 2002 Trung cộng đã thỏa thuận với các nước Ðông Nam Á là không
thay đổi "nguyên trạng" trên các hòn đảo tranh chấp. Ðắp các đảo nhân
tạo không những làm trái thỏa thuận này mà còn vi phạm luật pháp quốc
tế. Trung cộng được lợi gì khi thay đổi nguyên trạng?
Về mặt quân sự, mấy phi trường và căn cứ mới chỉ có chút giá trị nếu
Trung cộng đánh nhau với Việt Nam. Nhưng tất cả đều là những căn cứ cố
định, phơi bày giữa biển chứ không giống những đoàn quân chui rúc trong
rừng; cho nên có thể bị hỏa tiễn Mỹ xóa tan ngay trong một cuộc đụng độ
giữa Trung cộng với Philippines hay Nhật Bản, là những nước được hiệp
ước an ninh với Mỹ bảo vệ.
Về mặt kinh tế, Trung cộng không cần phải có các căn cứ quân sự mới
làm gì. Ðường tiếp tế dầu khí và nguyên liệu cho kinh tế Trung Quốc chưa
bao giờ bị de dọa bằng vũ lực; mà nếu bị đe dọa thì các căn cứ mới cũng
không ngăn cản được ai.
Tóm lại, trong việc Trung cộng xây thêm căn cứ quân sự trên các đảo
nhân tạo, lợi bất cập hại. Có phải giới lãnh đạo Bắc Kinh đã hành động
dại dột hay không?
Phải giả thiết rằng họ không dại dột. Họ đầy đủ thông tin và đủ trí
thông minh, nếu không hơn thì cũng không kém gì chúng ta. Họ phải biết
những hành động gây sự mới này chẳng được lợi bao nhiêu trong khi gây
nhiều hậu quả bất lợi.
Cho nên chỉ có thể giải thích những hành động "dại dột" của Trung
cộng nếu công nhận họ có những mục tiêu đặc biệt mà người ngoài không
thấy.
Việc xây dựng các căn cứ quân vừa qua của Trung cộng có thể nhắm một
mục tiêu nhỏ hơn các suy nghĩ của mọi người. Họ chỉ nhắm vào một nước
Việt Nam. Họ chấp nhận những phản ứng bất lợi từ nước Mỹ và Philippines,
Nhật Bản, trong một thời gian ngắn. Sau khi mục tiêu nhắm riêng vào
Việt Nam đã đạt được, Bắc Kinh vẫn có thể sẽ tỏ thái độ hòa hoãn, gây
thiện cảm với các nước này bằng cách khác, để xóa bỏ những phản ứng xấu
họ mới gây ra. Bắc Kinh chỉ cần ngưng các lời lẽ hiếu chiến đối với
Tokyo và Manila trong nửa năm thì cả chính quyền Mỹ cũng được thoa dịu,
coi như Trung cộng đã lùi bước.
Nhưng riêng với Việt Nam thì khác. Trung cộng đã củng cố những hòn
đảo chiếm được của nước ta ở Hoàng Sa và Trường Sa. Họ muốn tình trạng
đó càng ngày càng được phơi bày trước thế giới một cách rõ ràng, cụ thể,
hiển nhiên hơn. Họ muốn đặt dân tộc Việt Nam trước một "sự đã rồi" rõ
ràng, chặt chẽ hơn, khó tháo gỡ hơn. Trung cộng sẽ phân trần với cả thế
giới rằng họ không có ý khiêu khích Mỹ hay Nhật, không muốn "thay đổi
nguyên trạng" trong cả vùng Ðông Nam Á, liên can đến các nước khác. Họ
sẽ chứng tỏ với mọi người rằng họ chỉ muốn "củng cố nguyên trạng" tại
các hòn đảo đã cướp được của Việt Nam, trong viễn tượng một tương lai
lâu dài và không thể đảo ngược lại.
Ðể biện minh cho hành động này, Trung cộng chỉ cần trưng ra một lần
nữa những thứ như bức công hàm của Phạm Văn Ðồng năm 1958, các sách giáo
khoa và bản đồ do Cộng Sản Việt Nam ấn hành từng công nhận các quần đảo
trên thuộc chủ quyền của Bắc Kinh. Khi Ðảng Cộng Sản Việt Nam không dám
có một hành động nào mạnh hơn những lời phản đối chiếu lệ như trước
đây, thì tình trạng "ván đã đóng thuyền" càng ngày càng khó đảo ngược.
Nước Việt Nam sẽ tiếp tục bị cô lập. Các nước khác sẽ không có lý do
nào, và cũng chẳng có quyền lợi nào, để phản đối mối quan hệ bang giao
giữa Trung cộng với Việt Nam, trong khi hai Ðảng Cộng Sản vẫn song ca
bài "4 Tốt và 16 Chữ Vàng". Cuối cùng, việc xây dựng các căn cứ và phi
trường mới chỉ xác nhận cụ thể hành động bán đứt Hoàng Sa và Trường Sa
của Ðảng Cộng Sản Việt Nam mà thôi.
Tiến trình chứng tỏ "ván đã đóng thuyền" này đã được tiến hành từ năm
1974 đến nay. Câu hỏi còn lại là tại sao giới lãnh đạo Bắc Kinh lại
thực hiện các công trình mới một cách gấp rút trong thời gian chưa đầy
một năm qua? Tại sao họ không tiếp tục đi từng bước nhỏ như trong bốn
chục năm vẫn làm, qua những việc thành lập quận Tam Sa; việc đánh, giết
các ngư dân người Việt; đưa giàn khoan lớn vào hải phận Việt Nam; hoặc
lâu lâu ban hành các lệnh cấm tàu đánh cá Việt Nam hoạt động?
Chỉ có một lý do, là Bắc Kinh lo ngại Việt Nam sẽ thay đổi; và thay
đổi nhanh chóng trước khi họ hoàn tất các biện pháp củng cố cần thiết.
Xây dựng các căn cứ quân sự mới là một việc cụ thể, cần thiết để xác
nhận chủ quyền của Trung cộng.
Nhưng Trung cộng có lo ngại chính Việt cộng sẽ thay đổi hay không?
Ðiều này khó xảy ra. Ðạo quân tình báo Trung cộng vẫn nắm chắc Ðảng Cộng
Sản Việt Nam trong tay. Giới lãnh đạo Việt cộng vẫn tiếp tục để cho
Trung cộng thao túng về kinh tế, chính trị, ngoại giao, không một cá
nhân nào trong hàng ngũ lãnh đạo Việt cộng đủ sức thay đổi.
Cho nên, mối lo thực của Trung cộng là cả chế độ Cộng Sản Việt Nam sẽ
tan rã và sụp đổ trước khi Trung cộng củng cố vững chắc việc mua đứt
các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tình báo của Bắc Kinh cũng biết chế
độ Cộng Sản Việt Nam đang mong manh. Bất cứ một chính quyền mới nào ở
Việt Nam mà không thuộc Ðảng Cộng Sản cũng có thể thay đổi quan điểm đối
ngoại. Ðặc biệt là trong mối bang giao giữa Việt Nam và Trung Quốc, một
chính quyền không Cộng Sản có thể xóa bỏ trên danh nghĩa tất cả các cam
kết đối với Trung cộng, trong đó có lá thư của Phạm Văn Ðồng. Khi đó,
tất cả công trình của Ðảng Cộng Sản Trung Hoa thực hiện ở Biển Ðông sẽ
bị thế giới nhìn bằng con mắt khác.
Tóm lại, Trung cộng không dại dột. Họ chỉ lo xa, tính kỹ, "tiên hạ
thủ vi cường" khi lo dân Việt Nam có thể thay đổi cuộc cờ, không biết
lúc nào!
Ngô Nhân Dụng
No comments:
Post a Comment