Kính thưa quý thính giả,
Một người nổi tiếng về đạo đức, có khí phách của kẻ sĩ, đứng
ra gánh vác việc núi sông,
là tấm gương sáng về lòng yêu nước thương dân của một vị đại
thần, sau khi mất được
vua Tự Đức ban cho 4 chữ “Liêm, Bình, Cần, Cán” là Trong sạch, Công bằng, Siêng
năng và Tháo vát.
Trong tiết mục “Danh nhân nước Việt” tuần này, chúng tôi xin gửi đến quý thính giả bài “Kinh Lược Sứ Phan Thanh Giản” của Việt Thái qua giọng đọc của Minh Nguyệt để chấm dứt chương trình phát thanh tối hôm nay
Non nước tan tành, hệ bởi đâu?
Dàu dàu mây nước, cõi
Ngao Châu.
Ba triều công cán, vài
hàng sớ,
Sáu tỉnh cang thường, một
gánh thâu.
Trạm Bắc ngày chiều, tin
điệp vắng,
Thành Nam đêm quạnh, tiếng
quyên sầu.
Minh sinh chín chữ, lòng
son tạc,
Trời đất từ đây, mặc gió
thu.
Tám câu trên nằm trong bài điếu văn đầy xúc động của nhà nho
Nguyễn Đình Chiểu khi hay tin cụ Phan Thanh Giản tuẫn tiết.
Cụ Phan Thanh Giản sinh năm 1796, cha là ông Phan Thanh Ngạn và mẹ là bà Lâm Thị
Búp cư trú tại làng Mù U, thuộc bãi Ngao (tức Ngao Châu), thuở nhỏ sống trong cảnh
nghèo nhưng hiếu thảo, học hành chăm chỉ.
-Năm 1825, cụ Phan thi Hương tại Gia Định, đỗ Cử nhân. Năm
sau thi Hội, cụ đậu Tiến sĩ ở tuổi 30. Từ đấy, cụ làm quan trải qua 3 triều vua Minh Mạng,
Thiệu Trị và Tự Đức.
Triều vua Minh Mạng, cụ được bổ làm Hàn lâm viện Biên tu,
thăng Lang trung bộ Hình. Sau đó, cụ thuyên chuyển ra Nghệ An, Bình Thuận, Quảng
Nam. Vì thẳng thắn, dám nói nên bước đầu cụ bị lận đận về đường công danh, về
sau mới được hạnh thông.
-Năm 1847, cụ Phan được vua Thiệu Trị giao chức Hình Bộ Thượng
Thư.
-Năm 1851, vua Tự Đức đổi cụ sang bộ Lại và cử làm Kinh lược
sứ Nam kỳ.
-Năm 1853, cụ làm Thượng thư Bộ Binh. Kế đến, giữ nhiệm vụ Tổng
tài Quốc sử Quán, chủ biên bộ Thông giám Cương mục.
-Năm 1862, được cử vào Gia Định nghị hòa với Pháp.
-Năm 1863, được cử sang Pháp chuộc 3 tỉnh miền Đông.
-Năm 1865, sung chức Kinh Lược Sứ, đóng tại Vĩnh Long lo giữ
3 tỉnh miền Tây là Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên.
-Đầu năm 1867, Thiếu tướng De La Grandiere đưa quân chiếm Mỹ
Tho.
-Ngày 20/6/1867,
Pháp đánh chiếm Vĩnh Long, yêu cầu cụ gửi mật thư cho thủ thành An Giang và Hà Tiên
buông súng. Trước sức mạnh quân sự của Pháp, biết không thể giữ thành và để tránh đổ
máu nên cụ Phan quyết
định giao thành, không kháng cự với điều kiện là Toàn quyền Pháp phải bảo đảm an toàn cho dân chúng.
Trong 5 ngày, quân Pháp chiếm toàn bộ 3 tỉnh miền
Tây. Cụ tuyệt thực suốt 17 ngày, rồi
uống thuốc độc tự tử vào ngày 4/8/1867,
hưởng thọ 72 tuổi.
Đền thờ cụ Phan Thanh Giản hiện ở ấp Thạnh
Nghĩa, xã Bảo Thạnh, huyện Ba Tri, Bến Tre. Và từ lâu, dân chúng ở vùng núi Ba Thê, thuộc huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang
vẫn xem cụ là một vị thần hoàng. Ngoài ra, cụ còn được thờ tại Văn Thánh Miếu ở Vĩnh Long.
Cụ Phan Thanh Giản được 2 lần phong thần, một lần do vua Khải Định phong tại Thủ
Dầu Một, một lần do vua Bảo Đại phong tại Vĩnh Long.
*****
Cụ Phan Thanh Giản được nhiều
người kính trọng vì tính cương trực, khẳng khái, hiếu nghĩa, thanh liêm. Nhưng đám cộng sản Trần Huy Liệu kết tội Cụ là kẻ bán nước, nên sau khi cưỡng chiếm miền Nam năm 1975, tất cả trường học và nhiều đường
phố ở miền Nam Việt Nam mang tên Cụ đã bị bạo quyền Cộng sản Việt Nam đổi tên.
Tại Cần Thơ, cộng sản đã hạ bảng tên trường trung học Phan
Thanh Giản để thay thế bằng cái tên Châu Văn Liêm và phá đổ tượng cụ Phan ở
giữa sân trường trung học lớn nhất và lâu đời nhất của miền Hậu Giang.
Những hành động này cho thấy bản chất thiếu hiểu biết về lịch
sử và quá khích, cực đoan của người cộng sản. Họ không hề biết rằng, cụ Phan tự
tử chết chứ không đầu hàng Pháp. Trước khi chết, Cụ còn dặn dò con cháu phải kháng
chiến chống Pháp và không được sống trong vùng bị Pháp chiếm đóng.
Người cộng sản cũng không dám nhớ “đấng cha già” tên Hồ Chí
Minh của họ đã từng nạp đơn xin được học làm công chức cho Pháp. Và họ cũng
quên luôn việc Hồ Chí Minh chịu khó chờ đến nữa đêm, gõ cửa nhà bộ trưởng thuộc
địa Marius Moutet để được ký vào thỏa ước 6 Mars, cho quân Pháp trở lại miền
Bắc năm 1946. Nếu mang ra so sánh thì cụ Phan Thanh Giản có lòng "yêu nước
thương dân" gấp trăm lần Hồ Chí Minh, và gấp vạn lần tập đoàn lãnh đạo Cộng
sản Việt Nam.
Ít nhất thì Cụ Phan đã tuẫn tiết sau khi giao thành cho Pháp
để cứu dân thoát khỏi nạn binh lửa. Cụ đã giữ đúng tiết tháo của một sĩ phu trước
cơn quốc nạn. Khí phách đó đã được nhiều tướng lãnh Việt Nam Cộng Hòa kế tục,
như Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ và Phạm Văn Phú
trong những ngày đen tối của tháng 4 năm 1975.
No comments:
Post a Comment