Saturday, December 5, 2020

Chúa Nguyễn Hoàng

Danh Nhân Nước Việt

Kính thưa quý thính giả, hơn 450 năm về trước, có một nhà quân sự tài giỏi, tấm lòng nhân đức, được nhiều người mến phục. Ngài đã dẹp tan ý đồ xâm lược của quân Chiêm Thành, khai khẩn đất đai và phát triển thêm nhiều vùng đất ở phương Nam. Qua chuyên mục Danh Nhân Nước Việt tuần này, chúng tôi xin gửi đến quý thính giả bài “Chúa Nguyễn Hoàng  của Việt Thái qua giọng đọc của Minh Nguyệt để kết thúc chương trình phát thanh tối hôm nay.

Việt
Thái

Nguyễn Hoàng sinh năm 1525, tại làng Gia Miêu, huyện Tống Sơn, phủ Hàng Tung, xứ Thanh Hóa (nay là huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa), con của ông Nguyễn Kim và bà Nguyễn Thị Mai. Ông Nguyễn Kim, con trưởng của Nguyễn Hoằng Dụ, làm quan đầu triều Lê, giữ chức Hữu vệ điện tiền tướng quân. Bà Mai là con gái của Nguyễn Minh Biện, thượng tướng của triều Lê.

Nguyễn Hoàng làm quan nhà Lê, được phong làm Hạ Khê hầu, đem quân đánh dẹp Mạc Phúc Hải, chém chết tướng Trịnh Chi ở huyện Ngọc Sơn.

Vào năm 1558, ông đóng quân ở Ái Tử, huyện Đăng-xương, tỉnh Quảng Trị.

Năm 1559, ông được vua Lê cử vào trấn thủ đất Thuận Hóa, Quảng Nam.

Năm 1578, quân Chiêm kéo qua đánh phá biên giới, ông cử Lương Văn Chánh đem quân đánh chiếm thành An Nghiệp, là một trong những kinh thành đồ sộ và kiên cố nhất trong lịch sử Chiêm Thành.

Năm 1592, ông đem quân ra Bắc giúp họ Trịnh. Trịnh Tùng phong cho ông làm Trung quân Đô đốc phủ, ông lập nhiều công lao, dẹp tan các cuộc chống đối của họ Mạc và các cuộc phản loạn trong vùng. Trịnh Tùng ghen ghét công lao, tìm cách giữ ông lại, không cho về Thuận Hóa.

Năm 1597, ông ra lệnh cho Lương Văn Chánh, tri huyện Tuy Viễn, trấn An Biên, đưa 4000 dân vào khai khẩn vùng đất phía Nam Đại Việt từ đèo Cù Mông (phía bắc Phú Yên) đến đèo Cả (phía bắc Khánh Hòa). Ông cùng dân chúng từng bước khẩn hoang, lập ấp, từng bước tạo nên những làng mạc đầu tiên trên châu thổ sông Đà Diễn, sông Cái.

Năm 1600, ở Đông Đô được 8 năm, khi bị Trịnh Tùng gửi thư hăm dọa, ông dẫn binh về Thuận Hóa mở mang bờ cõi. Từ đấy Nam Bắc phân chia, bề ngoài 2 bên hòa hoãn, nhưng bên trong đều chuẩn bị chiến tranh.

Nắm được lòng dân, để đưa Đàng Trong phát triển, ông đã cho mở mang ngoại thương, hướng tầm nhìn ra biển nên thuyền buôn các nước đến nhiều, nên nơi này trở thành một nơi phồn hoa đô hội. Ông có những chính sách khai khẩn và mở rộng lãnh thổ về phương Nam nên hậu duệ của ông tiếp tục chính sách này và chiến đấu với họ Trịnh bất phân thắng bại trong nhiều năm.

Cuối cùng họ Nguyễn cũng đã hoàn thành việc thống nhất đất nước từ Nam đến Bắc, cùng với chủ quyền ở biển Đông, khởi đầu từ niên hiệu Gia Long (cháu đời thứ 11 của Nguyễn Hoàng).

Năm 1611, Chiêm Thành tiếp tục quấy nhiễu vùng biên giới Hoa Anh, ông đã sai Văn Phong đi dẹp, quân Chiêm bị đánh bại trước lực lượng của chúa Nguyễn. Vua Po Nit của Chiêm Thành phải rút quân xuống phía Nam đèo Cả. Sau đó, vùng đất Hoa Anh này trở thành phủ Phú Yên gồm 2 huyện Tuy Hòa và Đồng Xuân, ông giao cho Lương Văn Chánh làm tham tướng, Văn Phong làm lưu thủ.

Chúa Nguyễn Hoàng mất ngày 20/7/1613, thọ 89 tuổi, vua Lê ban tước Cẩn nghĩa công, thụy là Cung Ý.

Khi ông mất, giang sơn họ Nguyễn trải dài từ đèo NgangHoành Sơn qua đèo Hải Vân tới núi Đá Bia, gần đèo Cả (nay là vùng cực Nam tỉnh Phú Yên, giáp Khánh Hòa). Diện tích 2 xứ Thuận Hóa và Quảng Nam rộng khoảng 45 ngàn cây số vuông.

Ban đầu, mộ của ông an táng ở vùng núi Thạch Hãn, huyện Hải Lăng, phủ Triệu Phong (nay thuộc huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị). Về sau được cải táng về núi La Khê tức Khải Vận Sơn (nay thuộc huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên).

Ông được thờ tại chùa Long Phước (nay thuộc huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị), sau này được chúa Nguyễn Phúc Nguyên phối thờ cùng Tĩnh Công Nguyễn Kim tại chùa Thiên Mụ ở Phú Xuân (Huế).

Năm 1804, vua Gia Long cho dựng Thái Miếu rộng 13 gian để thờ các chúa Nguyễn cùng các bậc công thần và suy tôn chúa Nguyễn Hoàng miếu hiệu là Thái Tổ.

Hiện nay, nhiều con đường và khu phố trong nước được đặt tên ông.

*****

Ngoài tài cầm quân, chúa Nguyễn Hoàng còn biết dùng tài đức để phủ dụ dân chúng, ông được xem là bậc khai quốc công thần của triều Nguyễn. Ông có công lớn trong sự nghiệp Nam tiến của nước Việt và ông là người mang lại cuộc sống ấm no cho dân chúng, nên được kính phục và nhớ ơn. Đặc biệt, năm 1601, ông cho xây chùa Thiên Mụ, ngôi chùa này có giá trị về lịch sử vì liên hệ mật thiết với quá trình phát triển vùng đất Thuận Hóa và triều Nguyễn sau này.

Trong Việt Nam sử lược, cụ Trần Trọng Kim khen ông:

“Nguyễn Hoàng là một người khôn ngoan mà lại có lòng nhân đức, thu dùng hào kiệt, yên ủi nhân dân, cho nên lòng người ai cũng mến phục”.

Tên tuổi chúa Nguyễn Hoàng đi vào sử Việt như là một trong những công thần đánh dẹp quân Chiêm xâm lược và mở mang bờ cõi. Về sau, triều đại nhà Nguyễn bị CSVN phê phán khá nặng nề vì bị thực dân Pháp đô hộ, nhưng ít nhất triều đại này vẫn có nhiều điểm sáng chói hơn đảng CS đã đưa xã hội ngày càng suy đồi về mọi lãnh vực. Hơn thế nữa, tội lớn nhất của tập đoàn lãnh đạo đảng là không những không mở mang thêm được một tấc đất nào cho nước Việt mà lại còn lén lút dâng hiến hàng loạt đất đai và biển đảo cho Tàu Cộng phương Bắc./.

No comments:

Post a Comment