Saturday, November 22, 2014

Trương Nhân Tuấn: Vấn Đề Tranh Chấp Biên Giới Giữa Việt Nam và Kampuchia - phần 1

Thứ Bảy, ngày 22-11-2014   
Kính chào quý vị thính giả, NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA CHÚNG TA tuần này xin được thảo luận về Vấn đề Tranh Chấp Biên Giới giữa Việt Nam và Kampuchia, nói nôm na là "Tranh chấp biên giới Việt-Miên". Diễn giả là ông Trương Nhân Tuấn, một nhà nghiên cứu chuyên về biên giới Việt Nam và là tác giả tác phẩm biên khảo "Biên Giới Việt Trung 1885-2000". Ông Trương Nhân Tuấn tham dự cuộc thảo luận này từ Marseille, Pháp Quốc.
Hải Nguyên: Thưa Ông, vừa qua tại Kampuchea đã xẩy ra một số cuộc biểu tình của một số người Khmer đòi Việt Nam phải trả lại những vùng đất, vùng biển mà họ cho rằng VN đã chiếm của Kampuchea. Xin Ông cho biết một cách tổng quát việc tranh chấp biên giới Việt-Kampuchea xẩy ra từ bao giờ và quy mô như thế nào?
Trương Nhân Tuấn: Tranh chấp về lãnh thổ giữa hai bên VN và Kampuchia, nếu xét trên phương diện những yêu sách khác nhau của người Khmer hiện nay về lãnh thổ thì ta thấy các học giả Khmer nghiêng về lịch sử. Mà nói về lịch sử thì có thể nói là tranh chấp hai bên đã xảy ra từ rất lâu. Dầu vậy ta có thể chia ra làm bốn thời kỳ. Mỗi thời kỳ bản chất của tranh chấp khác nhau, các lý lẽ biện minh cho yêu sách của các bên khác nhau. Điều này xảy ra do ảnh hưởng địa chính trị, hoàn cảnh lịch sử cũng như tinh thần dân tộc chủ nghĩa mạnh mẽ từ các bên.
Thời kỳ đầu, từ đầu thế kỷ thứ 17 đến khi Nam kỳ trở thành thuộc địa của Pháp 1862.
Thời kỳ thứ hai, từ năm 1862 đến năm 1945, sau khi Đại chiến thế giới kết thúc.
Thời kỳ thứ ba, từ 1945 cho đến năm 1975. Quan trọng trong thời kỳ này là nội dung hiệp định Genève 1954 về ba miền Đông dương.
Thời kỳ thứ tư, từ 1975 đến hôm nay.
Giữa hai bên có ba loại tranh chấp. 1/ về lãnh thổ trên đất liền, có hai khuynh hướng tranh chấp, thứ nhứt là đất khu vực dọc theo biên giới, thứ hai, tranh chấp vùng đất mà người Kampuchia gọi là Khmer Krom 2/ về chủ quyền các đảo, quan trọng nhất là đảo Phú Quốc và 3/ tranh chấp về ranh giới hải phận, về hiệu lực các đảo trong vịnh Thái Lan.
Muốn biết nội tình các tranh chấp này ra sao, lý lẽ mà các học giả Kampuchia vịn vào để đòi đất đai, lãnh thổ là như thế nào, cũng như các lý lẽ này có hợp lý hay không ? điều cần thiết là ta cần phải hiểu ngọn nguồn, tức là vừa theo lịch sử của tranh chấp, vừa theo tinh thần của luật pháp quốc tế.
Hải Nguyên: Ông có thể nói cho độc giả biết sơ lược lịch sử về các thời kỳ tranh chấp giữa hai bên ?
Trương Nhân Tuấn : Thời kỳ thứ nhất, thuần túy lịch sử. Cũng cần nói sơ qua vì các yêu sách của phía Khmer hiện nay nghiêng về lịch sử.
Bắt đầu sau khi VN bình định xong Chiêm Thành khoảng đầu thế kỷ 17. Lãnh thổ VN được mở ra về phía nam cho đến Bình Thuận. Từ đó hai dân tộc VN và Khmer trực tiếp đối đầu với nhau. Vào thời điểm này thì đế quốc Khmer đã suy tàn.
Đế quốc Khmer là một đế quốc hùng mạnh, cao điểm là thế kỷ thứ 11. Theo ý kiến các học giả phương Tây thì lãnh thổ đế quốc này trải dài từ bắc Thái Lan, một phần Miến Điện, bao gồm thêm nam Lào cho đến miền Nam VN hiện nay. Đế quốc này suy tàn bắt đầu từ thế kỷ 14. Các đế quốc Xiêm lần lượt mang tên Sukhôthaï, Ayuthia và Bangkok, đã chinh phục hầu như 80% lãnh thổ đế quốc Khmer. Đế quốc Khmer hùng mạnh ngày xưa đã bị đế quốc Thái tiêu diệt gần hết. Dân chúng Khmer sót lại đã chạy đi tản mát, một số trở thành các bộ lạc nhỏ trong rừng sâu, núi thẳm, số còn lại lui về lập đô ở Nam Vang. 2/3 diện tích nước Thái Lan hiện nay vốn ngày xưa thuộc về đế quốc Khmer. Các di tích lịch sử, đền đài của Khmer như Angkor Thom và Angkor Vat, hoàn toàn xóa bỏ trong ký ức của dân Khmer, bị bỏ hoang phế. Chỉ đến giữa thế kỷ thứ 19 thì các phế tích này mới được mọi người biết đến.
Công cuộc nam tiến của VN, cũng như sự bành trướng của đế quốc Thái gặp nhau. Vô hình chung đế quốc Khmer ở Nam Vang trở thành một quốc gia « trái độn » ở giữa hai thế lực mạnh mẽ là Thái và Việt. Việc dằn co hai bên Thái-Việt về Khmer kéo dài khoảng 1 thế kỷ.
Trong khoảng thời gian dằn co này, ta có thể nói rằng VN đã xây dựng và củng cố xong địa bàn của mình ở miền Nam hiện nay. Các tỉnh Biên Hòa, Mỹ Tho được xây dựng dưới thời các chúa Nguyễn, nhờ công lao các cựu trung thần nhà Minh, như Dương Ngạn Địch và Trần Thượng Xuyên. Khu vực Hà Tiên và vùng chung quanh như Châu Đốc, Rạch Giá, Phú Quốc... cũng được xây dựng nhờ công lao của một người Hoa khác, thần phục VN, tên là Mạc Cửu.
Năm 1834 dưới triều Minh Mạng, VN đã áp đặt được quyền lực của mình lên đế quốc Khmer. Nam Vang được gọi là « Trấn Tây Thành », lãnh thổ nước này được phân chia ra thành 32 tỉnh, huyện. Đến năm 1841, được sự trợ giúp của quân Xiêm, dân Khmer ở Nam Vang nổi loạn, quân VN phải rút đi. Nhưng đến năm 1845 phía Khmer lại cầu cứu VN, vì so ra ách cai trị của quân Xiêm còn bạo tàn nhiều hơn VN. Cuối cùng đế quốc Khmer phải chịu thần phục cùng lúc hai nước VN và Thái Lan. Việc này kéo dài cho đến khi đế quốc Pháp vào VN.
Trong khoảng thời gian này thì không có vấn đề gọi là « tranh chấp về biên giới hay lãnh thổ » giữa hai bên Việt và Miên, mà chỉ có hiện tượng gọi là cá lớn nuốt cá bé, xảy ra thường trực ở mọi nơi trên thế giới. Tức là, một dân tộc muốn tồn tại là phải mạnh và không thể để hiện hữu các thế lực đe dọa chung quanh. Ta thấy, ở Châu Á, trường hợp đế quốc Trung Hoa với các dân tộc chung quanh, hay tại Châu Âu, Trung Á, các nước Ả Rập... các đế quốc chinh phục lẫn nhau để mở rộng bờ cõi. Mạnh được yếu thua. Ta thấy biết bao nhiêu đế quốc mạnh mẽ như Roma, Ottoman, các đế quốc thuộc văn minh Nhị Hà (tức là Mésopotamia) thuộc Irak, Iran hiện nay... có lúc cực thịnh, nhưng rồi đều suy tàn. Cá lớn nuốt cá bé. Các việc chinh phục xảy ra thường trực mà không hề dựa trên một phép tắc hay theo một đạo lý nào. Đế quốc Khmer, đến thế kỷ 14 mạnh mẽ biết bao nhiêu. Sau đó thì suy tàn, đến đỗi con cháu họ không biết đến nền văn minh rực rỡ Angkor Vat, Angkor Thom của tổ tiên họ ra sao. Các học giả Tây phương cùng đồng ý rằng, nếu Pháp không kịp thời có mặt tại Đông dương, đế quốc Khmer chắc chắn sẽ bị mất về hai đế quốc Thái lan và VN.
Các học giả Khmer hiện nay lên án rằng VN chiếm đất của tổ tiên họ. Điều này trên quan điểm lịch sử và luật lệ quốc tế thì không thuyết phục. Cũng như VN hiện nay khó mà nại lý do Trung Hoa chiếm đất của tổ tiên mình ở Quảng Đông, Quảng Tây. Cũng như dân Ý bây giờ đâu thể nào đòi lại lãnh thổ trước kia thuộc đế quốc Roma, hay nước Thổ đòi tái dựng lại đế quốc Ottoman. Nếu ai cũng nại lý do như vậy thì thế giới sẽ đảo lộn, biển Địa Trung Hải sẽ trở thành « nội hải » của nước Ý. Nếu chỉ nói trong khu vực, tại Trung Quốc, các tỉnh Mãn Châu, Vân Nam, Tây Tạng, Quảng Đông v.v... trước kia là các quốc gia độc lập. Ai cũng lên tiếng đòi đất, đòi độc lập thì lãnh thổ của Trung quốc sẽ không còn.
Mặt khác, dân Khmer, ảnh hưởng văn minh Ấn Độ, không có quan niệm quốc gia với đường ranh giới rạch ròi, như là quan niệm của văn minh Trung Hoa. Chính người Khmer, khi lục lại lịch sử của họ cũng không tìm thấy một tấm bản đồ nào cho mọi người biết là lãnh thổ của họ đã mở từ đâu đến đâu. Không biết lãnh thổ mình có từ đâu đến đâu thì đòi lại cái gì ? và ở chỗ nào ?
Quan niệm về quốc gia của dân tộc Khmer chỉ mới có sau khi tiếp xúc với văn minh Tây phương. Và chỉ sau khi tiếp xúc với Pháp, công nhận sự bảo hộ của Pháp, lãnh thổ Khmer mới lần hồi thành hình qua các đợt phân giới và cắm mốc sau này.
Những yêu sách về lãnh thổ của các học giả Khmer khi nại lịch sử là điều không phù hợp công pháp quốc tế, không ai chia sẻ. Kể cả những học giả quốc tế có cảm tình nhất với dân tộc này.
Hải Nguyên: Rồi thời kỳ thứ hai, tức là thời kỳ mà VN cũng như Kampuchia đều trở thành thuộc địa của Pháp, quan hệ giữa hai bên Việt Miên ra sao ? Hai bên có hoạch định biên giới hay không ?
Trương Nhân Tuấn : Sau khi triều đình nhà Nguyễn ký hiệp ước giao các tỉnh miền Nam cho Pháp năm 1862, thì năm 1856 vua Norodom (Nặc Ông Dương) thỉnh cầu được sự bảo hộ của Pháp. Ngày 11 tháng 8 năm 1863 hai bên ký ký hiệp định, vương quốc Khmer, lúc đó gọi là Cambodge, được đặt dưới quyền bảo hộ của Pháp. Từ đó Pháp đại diện cho vương quốc Khmer trong các lãnh vực đối ngoại và đối nội.
Nhưng nội dung kết ước này vua Norodom không hề nói tới lãnh thổ, biên giới của vương quốc mình có từ đâu tới đâu.
Người lãnh đạo Pháp ở địa phương lúc đó là đô đốc De La Grandière, ông này quyết định phân định biên giới nhằm xác định lãnh vực thuộc quyền quản trị của Pháp. Nhưng sự mù mờ của biên giới, cộng với sự thiếu hiểu biết tình hình địa chính trị của khu vực, ông này đã làm cho phía Thái Lan hưởng lợi.
Biên giới giữa Cambodge với Thái Lan được phân định hấp tấp, Pháp đại diện Khmer ký kết hiệp ước đầu tiên với Xiêm vào ngày 15 tháng 6 năm 1867, Xiêm từ bỏ quyền « thuợng quốc » của Xiêm đối với Khmer, nhưng Pháp phải nhượng cho Thái lãnh thổ Khmer ở hữu ngạn sông Cửu Long, tức ½ lãnh thổ Kampuchia hiện nay, gồm các tỉnh Battambang, Sisophon và Siemreap hiện nay.
Điều này trái ngược trên thực tế, vì trước khi Pháp vào Cambodge, vương quốc này phải chịu thần phục cả hai bên VN và Thái Lan. Lập trường ở Paris, là khi ký hiệp ước 1862 với triều đình nhà Nguyễn, nước Pháp có thẩm quyền thay thế nhà Nguyễn về quyền thượng quốc ở vương quốc Khmer. Kết ước giữa Pháp với vua Norodom chỉ có ý nghĩa tượng trưng chứ không mang tính bó buộc của pháp lý. Tức là có hay không có hiệp ước này thì lãnh thổ Khmer vẫn chịu quyền thuợng quốc, tức quyền bảo hộ, của Pháp. Điều này hoàn toàn phù hợp với « luật lệ quốc tế » trong thời kỳ.
Sự sai lầm về biên giới Thái-Miên được sửa chữa lại vào năm 1893. Các tỉnh của Cambodge nhượng cho Thái trước kia được khôi phục lại.
Biên giới Việt-Miên được phân định qua hai thời kỳ : năm 1870 và năm 1873. Cuộc phân định năm 1870 có sự hiện diện của quan chức Khmer, cắm được 60 mốc, nhưng sau khi phân định xong thì họ lại phản đối. Họ đòi lại vùng gọi là « mỏ vịt », và người Pháp đồng ý vạch lại biên giới, trả lại vùng này cho Cambodge. Cuộc phân định năm 1873 gồm 64 mốc.
Các tài liệu của Pháp về phân định biên giới cho thấy, vừa sau khi cắm mốc xong, phía Cambodge phản đối, các cột mốc vừa cắm liền bị nhổ đi và dời về phía VN.
Năm 1887 khối Đông dương được thành lập, Cambodge trở thành một thành phần của khối này, cùng với Cochinchine (Nam Kỳ), An Nam (Trung Kỳ) và Tonkin (Bắc Kỳ). Lào chỉ được thành lập sau này, do yêu cầu của ông August Pavie, vào năm 1893.
Đường biên giới giữa Cochichine (miền nam) và Cambodge trở thành đường biên giới hành chánh, nội bộ của Đông dương, thuộc thẩm quyền của quan Toàn Quyền người Pháp.
Vùng Darlac thì được sáp nhập và VN năm 1895. Điều này xảy ra do việc trao đổi đất đai : VN nhượng đất Trấn Ninh cho Lào, đồng thời Lào nhường vùng đất phía nam nước này cho Cambodge. Nhưng sau đó, năm 1899 vùng này lại trả về Lào, đến năm 1904 mới chính thức trở lại VN. Năm 1923 vùng Kontum cũng được nhập vào Darlac, đồng thời với vùng đất đỏ phía nam là Buôn Mê Thuộc.
Về lãnh thổ trên biển thì được xác định năm 1939, do nghị quyết của Toàn quyền Brévié. Đó là một đường thẳng 140°, thẳng góc so với bờ biển, theo đó các đảo phía bắc đường này thuộc Cambodge và các đảo phía nam thuộc VN, trong đó bao gồm đảo Phú Quốc.
Đến năm 1939, biên giới trên đất liền hai bên Việt-Khmer được phân định hoàn tất. Biên giới này là biên giới thuộc địa, thuộc nội bộ của nước Pháp, chứ không phải là đường biên giới quốc tế giữa quốc gia với quốc gia.
Các học giả Kampuchia hiện nay, một số theo chủ nghĩa « irrédentisme », tức chủ nghĩa đòi lại đất, cho rằng Pháp đã thiên vị VN lúc phân định biên giới, do đó có khuynh hướng không nhìn nhận đường biên giới này. Chủ quyền đảo Phú Quốc và các đảo chung quanh cũng bị đặt lại. Điều này không phù hợp với các luật lệ cũng như tập quán quốc tế.
Theo nguyên tắc « Uti possidetis » của công pháp quốc tế, áp dụng cho lãnh thổ các nước thuộc địa sau khi lấy lại được nền độc lập. Trong thời kỳ thuộc địa, lãnh thổ đó do bên này quản lý, thì sau khi dành được độc lập, vùng đất đó sẽ tiếp tục do bên này quản lý.
Vì vậy, hầu hết lập luận của các học giả Kampuchia hiện nay, khi lên tiếng đòi lại đất của VN, như đảo Phú Quốc, vùng lãnh thổ gọi là Khmer Krom (tức là vùng đất hiện nay thuộc tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu...), đều không thuyết phục, nếu không nói là trái ngược với luật lệ và tập quán quốc tế.
Thử tưởng tượng, ai cũng có thể đòi lại đất như vậy, thì nước Mỹ, nước Úc, Canada v.v... sẽ biến mất, vì đất đó là của người dân bản địa, chứ không phải của dân da trắng hiện nay. Cũng như nhiều nước Nam Mỹ, các nước Châu Phi... sẽ không còn tồn tại. Nên biết là đường biên giới các nước Phi Châu là do hai đế quốc thực dân Anh và Pháp phân định. Để ý thì thấy là đường biên giới ở đây thường đi theo đường thẳng, đường kinh tuyến, vĩ tuyến... nguyên nhân vì hai bên phân định trong văn phòng, trên bản đồ. Hậu quả của việc phân định như thế làm cho nhiều dân tộc không có quốc gia, hay một dân tộc bị chia cắt ra, mỗi phần ở trên một quốc gia khác nhau. Và ta thấy rằng các đường biên giới đó vẫn còn giá trị pháp lý cho đến hôm nay.
Vì thế đòi hỏi của các học giả Khmer, đi ngược lại tinh thần của quốc tế công pháp. Điều cần nhấn mạnh là các cuộc phân giới, mặc dầu do quan người Pháp điều khiển, nhưng các quan chức người Miên và người Việt đều có hiện diện. Vấn đề là họ không phản đối lúc phân định mà chỉ phản đối khi phân định đã hoàn tất. Sau này ta sẽ thấy, lập luận của Sihanouk về biên giới thay đổi như chong chóng. Năm 1945 khi Nhật đến thì lập tức nhảy sang Nhật. Khi thấy thế lực Trung Cộng nổi lên, Mao Trạch Đông thắng Tưởng Giới Thạch tháng 10 năm 1949, Sihanouk lại có khuynh hướng dựa vào Trung Cộng. Trong thời gian hội nghị Genève 1954, ông này nghĩ rằng sẽ được TQ giúp đỡ lấy lại đất, do đó đưa ra những yêu sách rất phi lý. Trong thời chiến tranh VN, Sihanouk lại thiên về phía CSVN, giúp phe này, hy vọng khi họ chiến thắng sẽ trả lại đất đai. Rồi sau 1975, các phe Kampuchia, kể cả Sihanouk, cũng lại chống VN vì họ cho rằng lãnh đạo CSVN không giữ lời hứa trả lại đất, vì thế cuộc chiến 1978 bùng nổ. Từ đó cho đến nay, vấn đề biên giới, lãnh thổ, hải phận... giữa VN và Kampuchia, lúc nóng, lúc lạnh tùy thuộc vào sự tốt lành quan hệ ngoại giao giữa VN và TQ. Những lúc sau này, tranh chấp giữa VN và TQ căng thẳng vì việc TQ đặt giàn khoan 981 trong thềm lục địa của VN, ta thấy các sư sãi, các chính trị gia Kampuchia lại dấy lên các cuộc biểu tình, đòi lại đất. Những điều này ta sẽ trở lại nói rõ hơn ở phần sau.
Còn Tiếp...

No comments:

Post a Comment