Thursday, February 27, 2014

Đảng tan rã vì những thế lưỡng nan

Thứ Năm, ngày 27.02.2014    
Tiến trình hủy diệt các chế độ độc tài và dân chủ hóa đất nước có tính xuyên quốc gia và bất khả vãn hồi vì những nguyên do vô cùng tất yếu, phát xuất từ bản chất nội tại của chế độ, lẫn điều kiện xã hội khách quan. Mời quý thính giả nghe phần Bình Luận của Ngô Nhân Dụng với tựa đề: "Đảng tan rã vì những thế lưỡng nan" sẽ được Song Thập trình bày để kết thúc chương trình phát thanh tối hôm nay.
Trong cuốn hồi ký "Một Cơn Gió Bụi" (Chương 12), Trần Trọng Kim nhận xét về đảng Cộng sản Việt Nam: "Cái chủ nghĩa cộng sản về đường luận thuyết cũng có điều bảo thủ như là muốn chữa những điều bất công trong xã hội, nhưng về đường kinh tế, thì lại áp chế quá, làm lắm điều hà khốc và dùng những thủ đoạn quỷ quyệt giả dối, khiến người ta mất lòng tin cậy. Ðem cái bất công bình nọ mà phá cái bất công bình kia thì dù có thắng lợi đi nữa, cũng không chắc đã vững bền." (Xin chú thích: Bảo thủ ở đây nghĩa là đáng giữ)
Trần Trọng Kim viết cuốn hồi ký này trước khi qua đời năm 1953 ở Ðà Lạt, vào tuổi 70, nhà xuất bản Vĩnh Sơn, Sài Gòn, in di cảo vào năm 1969. Trước đây hơn 60 năm, tác giả đã tiên đoán rằng dù có thắng lợi đi nữa, đảng Cộng sản cũng không vững bền. "Cũng không chắc đã vững bền" là lối diễn tả nhẹ nhàng theo ngôn ngữ của một nhà giáo, một người thấm nhuần phong cách Nho gia. Theo lối bây giờ sẽ nói thẳng rằng vì "người ta mất lòng tin cậy" đảng Cộng sản chắc chắn sẽ tan rã.
Vào lúc Trần Trọng Kim tiên đoán chế độ Cộng sản sẽ tan rã, cụ hoàn toàn dự đoán theo lương tri, chưa có kinh nghiệm như chúng ta bây giờ đã chứng kiến cảnh sụp đổ của các chế độ cộng sản ở Nga và Ðông Âu từ năm 1989. Ngày nay lớp hậu sinh học hỏi được nhiều hơn, với nhiều bằng cụ thể chứng hơn, chúng ta thấy rõ hiện tượng Ðảng Tan Rã đang xẩy ra, đúng như lời tiền nhân tiên đoán.
Trước hết vì các chế độ độc tài sụp đổ là một trào lưu đã diễn ra khắp thế giới liên tục trong 40 năm qua. Từ thập niên 1970 đến nay, gần 100 quốc gia đã chuyển từ độc tài sang các thể chế dân chủ dưới nhiều hình thức, và với mức độ tự do nhiều hay ít khác nhau. Các nước đổi sang thể chế dân chủ ngày càng nhiều, tại những nước đã dân chủ hóa thì dân vẫn đòi hỏi được tự do thêm. Người dân cũng như giới quyền quý ở Việt Nam, cũng như bên Trung Quốc đều biết điều đó.
Có một kinh nghiệm lịch sử, là các chế độ độc tài thường chấm dứt sau khoảng thời gian khoảng 70 năm cầm quyền, dù không bị sụp đổ do một biến cố bên ngoài, như Ðức Quốc Xã, Phát Xít Ý, hay Quân Phiệt Nhật thua trận. Cộng sản Liên Xô nắm quyền lâu nhất, được 74 năm. Quốc Dân Ðảng Trung Hoa được 73 năm, bắt đầu ở lục địa, chấm dứt ở Ðài Loan. Ðảng Dân chủ Ðịnh chế (Partido Revolucionario Institucional, PRI) ở Mexico cai trị 71 năm. Cả hai đảng ở Ðài Loan và Mexico sau còn được dân bầu trở lại cầm quyền vì họ chấp nhận, khởi xướng quá trình dân chủ hóa. Ðảng Cộng sản Nga thì không. So với thời hạn 70 năm thì hiện nay chế độ Cộng sản Trung Quốc đã thọ được 65 tuổi tính từ năm 1949, Cộng sản Việt Nam đã cầm quyền 69 năm kể từ năm 1945. Không biết hai đảng này sẽ phá được kỷ lục của Liên Xô hay không, nhưng chắc chắn họ sẽ theo chung một số phận. Cảnh tan rã thường được báo hiệu từ hàng chục năm trước, cường độ tăng lên dần dần.
Có hai lý do khiến cho các chế độ độc tài phải tan rã, dù ở Liên Xô, Mexico, Việt Nam hay ở Trung Quốc. Thứ nhất là hiện tượng suy đồi từ bên trong guồng máy thống trị. Thứ hai là loài người tiến bộ, với những thay đổi trong đời sống kinh tế, xã hội, nhất là trong kỹ thuật thông tin. Hai hiện tượng đó diễn ra song hành, thúc đẩy lẫn nhau, đưa tới tình trạng "Ðảng Tan Rã" không thể tránh được.
Các chế độ độc tài thường ra đời sau các cuộc chiến tranh hay cách mạng, với những lãnh tụ đầu tiên được tô điểm bằng hình ảnh hấp dẫn quần chúng, Max Weber gọi là "charisma." Sau đó, phải đi qua một quá trình mà Max Weber gọi là "bình thường hóa" (routinization). Mâu thuẫn nằm trong quá trình này, vì không đáp ứng được những thay đổi trong xã hội. Các chế độ độc tài thất bại vì không thể bình thường hóa một nề nếp xã hội mà giới trung lưu nhìn thấy là không bình thường. Giới trung lưu thành hình khi kinh tế phát triển. Lợi tức lên cao khiến người ta muốn tiêu thụ các sản phẩm và dịch vụ mà người nước khác được hưởng. Sau khi thỏa mãn những nhu cầu sơ đẳng (cơm ăn, áo mặc, nhà ở) sẽ nẩy sinh những nhu cầu ở cấp cao hơn, như con cái được hưởng một nền giáo dục tử tế, mình được an toàn nhờ pháp luật bảo vệ, được thỏa mãn các nhu cầu tinh thần, như quyền được đóng góp ý kiến về những quyết định chung liên can đến mình. Nhu cầu cao nhất là quyền được lựa chọn, được quyết định, do đó cần được cởi trói khỏi chế độ độc tài. Người ta tin vào một số giá trị giống giới trung lưu ở các nước tiến bộ, vì trình độ học vấn tương tự. Với hiểu biết rộng hơn, họ cũng bớt bảo thủ, sẵn sàng chấp nhận những bất đồng về tư tưởng, ý kiến. Họ tự ý thức các quyền lợi của mình và quyền lợi chung của xã hội mình đang sống; và họ sẵn sàng lên tiếng đòi hỏi, nếu cần thì hành động để phản kháng.
Một xã hội không thể tạo ra một tầng lớp trung lưu trong khi vẫn duy trì một guồng máy kiểm soát đè nén không cho những khát vọng của giới trung lưu được thể hiện, qua xã hội công dân với những tổ chức mà giới trung lưu tự lập để thể hiện những giá trị bình thường của giới trung lưu khắp mọi nơi. Diễn biến tất sẽ xảy ra, hòa bình hay không hòa bình. Chế độ độc tài phải tan rã.
Ngô Nhân Dụng

No comments:

Post a Comment