Kính thưa quý thính giả,
Lịch sử Việt Nam thời cận đại ghi lại, không những chỉ có
Đại Học Sĩ Phan Thanh
Giản, Tổng đốc Hoàng Diệu đã tuẫn tiết để giữ tiết tháo trong quốc nạn, mà còn có nhiều danh tướng yêu nước thương nòi, bất khuất trước kẻ thù, đã chọn cái
chết để tỏ lòng trung với nước. Trong tiết mục “Danh nhân nước Việt” tuần này,
chúng tôi xin gửi đến quý thính giả bài “Dũng tướng Nguyễn Tri Phương” của Việt
Thái qua giọng đọc của Minh Nguyệt để chấm dứt chương trình phát
thanh tối hôm
nay.
“Thử thành quách, thử giang sơn, bách chiến phong trần dư xích địa,
Vi nhật tinh, vi hà nhạc, thập niên tâm sự vọng thanh thiên”.
Tạm dịch:
Kia
thành quách, kia non sông, trăm trận phong trần còn thước đất,
Là trời sao, là sông núi, mười năm tâm sự với trời xanh.
Đó là 2 câu đối trong đền Trung Liệt
trên gò Đống Đa, để tưởng nhớ Nguyễn Tri Phương, một danh tướng thời nhà Nguyễn, tổng chỉ huy quân đội chống
quân Pháp ở Đà Nẵng, Gia Định và Hà Nội.
Nguyễn Tri Phương tên
thật là Nguyễn Văn Chương, tự
Hàm Trinh, hiệu là Đồng Xuyên, sinh ngày 21 tháng 7 năm Canh Thân tại làng Đường
Long, xã Chánh Lộc, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên. Xuất thân trong một gia đình nông dân, nhà nghèo nhưng
nhờ ý chí tự lập ông dựng nên nghiệp lớn.
-Năm 1823, vua Minh Mạng phong cho ông chức Điển Bộ, năm sau thăng
Tu Soạn, lên Thừa Chỉ, 2 năm sau
thăng chức Thị Độc, Thị Giảng Học Sĩ và năm 1831 lên chức
Hồng Lô Tự Khanh.
-Năm 1835, ông
vào Gia Định cùng Trương Minh Giảng bình định các vùng mới khai hoang, được
thăng lên Thị Lang.
-Năm 1840, được bổ làm Tuần phủ Nam Nghĩa, lo việc bố phòng cửa biển
Đà Nẵng, được thăng làm Tham tri bộ Công, được vua Thiệu Trị cử làm Tổng đốc An Giang, Hà Tiên để dẹp giặc cướp. Sau
đó, ông làm Tổng đốc Vĩnh
Long, Định Tường,
kiêm Khâm sai Đại Thần, được thưởng
danh hiệu "An Tây Trí Dũng Tướng".
-Năm 1845, ông cùng với Doãn Uẩn
đánh bại quân Xiêm La, bình định Cao Miên, ổn định hoàn toàn vùng biên giới Tây
Nam.
-Tháng 5
năm 1847, ông được triệu về
kinh, thăng chức Chánh hiệp biện Đại học sĩ, Thượng thư bộ Công.
-Năm 1850, vua Tự Đức phê chuẩn cải tên ông
từ Nguyễn Văn Chương thành Nguyễn Tri
Phương, phong làm Khâm sai Đại thần, kiêm Tổng đốc các tỉnh Gia Định, Biên Hòa,
Vĩnh Long, Định Tường, An Giang và Hà Tiên.
-Năm 1853, ông được
phong làm Đại Học Sĩ, lãnh chức
Kinh lược sứ Nam Kỳ.
-Năm 1860, ông được
thăng chức Thống đốc Quân vụ cùng Tham tán Đại thần Phạm Thế Hiển trông coi việc quân sự ở miền Nam.
Năm sau, thăng Binh bộ Thượng Thư chỉ huy lực lượng quân
sự chống Pháp.
-Năm 1862, khi
triều đình Huế mất 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ, ông được cử ra Bắc làm Tổng thống Hải
An Quân vụ, thăng chức
Võ hiển Đại học sĩ.
-Năm 1863, ông được
cử ra Bắc đánh dẹp quân Lê Duy Phụng.
-Năm 1870, quân Cờ Đen Lưu Vĩnh Phúc đánh phá
và cướp bóc các tỉnh
Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng.
-Năm
1872, ông giữ chức Tuyên
sát Đại thần, lo việc
quân sự ở Bắc Kỳ và thu phục quân Cờ Đen.
-Rạng sáng ngày
20/11/1873, quân Pháp đánh úp thành Hà Nội. Con trai ông là Phò mã Nguyễn Lâm tử
trận, ông cũng bị trọng thương, quân Pháp muốn đưa đi cứu chữa, nhưng ông từ chối và nói rằng: "Bây giờ nếu ta chỉ gắng lây lất mà sống,
sao bằng thung dung chết vì việc nghĩa". Sau đó, ông tuyệt thực và mất
vào ngày 20/12/1873, thọ 73 tuổi. Đích thân vua Tự Đức soạn bài văn tế cho 3 vị
công thần: Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Duy, Nguyễn Lâm và lập đền thờ Nguyễn Tri Phương tại Thừa Thiên.
* * *
Nhắc đến triều đình nhà Nguyễn, nhiều sử gia cộng sản phê
phán nặng nề vì cho rằng vua quan nhà Nguyễn ươn hèn, không thức thời để canh
tân đất nước, dẫn đến cơn quốc nạn Pháp Thuộc kéo dài gần một trăm năm. Có những
phê phán rất đúng, nhưng không thể "vơ đũa cả nắm" để nói rằng cả triều
đình đều nhu nhược, yếu hèn hay đầu hàng giặc Pháp.
Không tính đến các vị vua trẻ như Duy Tân, Hàm Nghi đã
can đảm đứng lên chống quân xâm lược Pháp, triều đình nhà Nguyễn đã có nhiều
văn thần võ tướng đầy lòng ái quốc, sẵn sàng hy sinh tính mạng để đưa đất nước
ra khỏi cơn quốc nạn. Và một trong những người mang tấm lòng nhiệt huyết đó là
Nguyễn Tri Phương, một người xuất thân từ giới bình dân giỏi cả văn lẫn võ.
Nhắc đến Nguyễn Tri Phương, ai cũng biết đến khí tiết của
ông khi nhất quyết từ chối việc chữa thương của người Pháp, và tuyệt thực đến
chết để "báo ơn vua, đền nợ nước" khi thành Hà Nội bị thất thủ.
Điều đáng nói hơn là, dù triều đình nhà Nguyễn có yếu
hèn đến đâu chăng nữa thì vẫn có được những văn thần võ tướng như Nguyễn Tri
Phương, Phan Thanh Giản... chứ không như chế độ cộng sản hiện nay không hề có
được một quan chức nào đủ can đảm lên tiếng chỉ trích Tàu Cộng, chứ đừng nói đến
việc cầm quân chống giặc Tàu.
Chính vì thế, nếu thật sự khách quan, các sử gia viết triều
Nguyễn ươn hèn đầu hàng giặc Pháp, thì cũng nên viết thêm là đảng CSVN đã cam
tâm dâng đất đai và biển đảo cho Tàu Cộng để đổi lấy quyền lực và vinh hoa phú
quý. Không biết có bao nhiêu người cộng sản nhớ câu thành ngữ "quốc phá gia vong" của các bậc
tiền nhân?
No comments:
Post a Comment