Tham nhũng tại Việt Nam phát xuất từ những hoạt động kinh tế thị trường nhưng “định hướng xã hội chủ nghĩa”, rút ruột ngân sách quốc gia qua các dự án chính phủ trao thầu cho tư bản đỏ TQ.
Mời quý
thính giả đài ĐLSN nghe phần Bình Luận của Thái Bình: “Bàn Về Quốc Nạn
Tham Nhũng ở Việt Nam” sẽ được Song Thập trình bày để kết thúc
chương trình phát thanh tối hôm nay.
Tham nhũng là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để hưởng lợi ích vật chất trái pháp luật. Ở Việt Nam tham nhũng đã trở thành quốc nạn, nó đang đe dọa chế độ toàn trị cộng sản đi đến diệt vong.
Thảm họa này được xuất hiện vào những năm 90 của thế kỷ trước, khi mà hệ thống các nước XHCN ở Đông Âu sụp đổ, vài nước cộng sản sót lại, trong đó có Việt Nam, lập tức co cụm lại tìm mọi cách để cầm cự, khẩu hiệu cải cách, đổi mới mang ý nghĩa sống còn cho chế độ được giương cao và ngay theo đó, các chính sách thích ứng được ra đời để cứu vãn tình thế.
Xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp (cơ chế đặc thù của chủ nghĩa xã hội), chuyển hẳn sang cơ chế thị trường (cơ chế đặc trưng của chủ nghĩa tư bản), là điểm đột phá cứu cánh cho 4 nước cộng sản còn sót lại, đó là Trung Quốc, Việt Nam, Cuba và Bắc Hàn. Từ đó, nền kinh tế Việt Nam bắt đầu có sự khởi sắc. Các nhà đầu tư của các nước tư bản ồ ạt tìm đến nước ta một cách đến chóng mặt, bởi vì: Một mặt Việt Nam thực hiện chính sách bế quan tỏa cảng của cộng sản trong suốt thời gian dài, và đến thời điểm tự nó phá vỡ. Chính sách mở cửa, nhất là chính sách kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài lập tức được ra đời và có sức thu hút các nhà đầu tư, vì Việt Nam, nguồn tài nguyên thiên nhiên trữ lượng còn khá lớn do chưa bị khai thác tối đa, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu giá rẻ, giá thuê đất rẻ và cuối cùng là giá nhân công lại càng rẻ mạt so với các nước phát triển. Đó là những yếu tố khích lệ cho các nhà đầu tư nước ngoài ào ạt đến với Việt Nam. Cùng với đó là các chính sách cho vay của các ngân hàng thế giới, ngân hàng châu Á, và ngân hàng khu vực có những cơ chế khuyến khích cho vay phù hợp với việc mở cửa và hội nhập của Việt Nam. Tiền nước ngoài đổ vào nhiều, bộ mặt đất nước có những đổi thay và cũng từ đó bộ mặt cán bộ, đảng viên có quyền chức cũng thay da, đổi thịt, nghĩa là nạn tham nhũng bắt đầu bùng phát.
Nói vậy không có nghĩa trước đó ở Việt Nam không có tham nhũng, không, hoàn toàn không, vì lúc đó nền kinh tế của đất nước đang nghèo đói, thiếu thốn đủ đường, nạn tham nhũng vẫn diễn ra nhưng quy mô, nó thích ứng với hoàn cảnh đói nghèo lúc bấy giờ. Lấy đâu ra những chương trình kinh tế kỹ thuật lớn (nay gọi là dự án) hàng trăm tỷ, hàng ngàn tỷ để phát sinh tham nhũng lớn. Thời đó cán bộ, đảng viên có quyền chức ăn cắp từng yến gạo, từng cân đường, hộp sữa, từng mét vải, bộ quần áo… gọi là tham ô, móc ngoặc với nhau để biển thủ của công. Hãn hữu mới có công trình đầu tư công mang tầm cỡ quốc gia, nên tham nhũng thời đó nó chỉ là ăn cắp vặt, ăn bẩn không hơn, không kém.
Do mới bắt đầu mở cửa, các nhà đầu tư nước ngoài để ý đến Việt Nam vì đây là địa chỉ dễ làm ăn, là miếng mồi béo bở để các nhà đầu tư kiếm chác và đây cũng là cơ hội kiếm ăn cho những cán bộ, đảng viên các cấp của cộng sản Việt Nam. Nên chẳng có gì làm lạ khi mà rầm rộ từ chính phủ cho đến các bộ,ngành, các địa phương trăm hoa đua nở xây dựng các dự án quốc gia, dự án cho ngành, cho địa phương với mục tiêu hào nhoáng là phát triển kinh tế-xã hội cho đất nước, cho ngành, cho địa phương. Cùng với đó là lợi ích của nhóm, lợi ích cá nhân của những người nắm trong tay trọng trách chi phối trong việc phê duyệt dự án, người trúng thầu cùng những người có liên quan được nâng lên theo tỷ lệ thuận, của số lượng dự án, quy mô dự án, tổng vốn đầu tư của dự án. Có thể liệt kê ra đây về các trình tự thủ tục hình thành dự án cho đến các công đoạn thi công dự án mà các nhóm lợi ích, các cá nhân có quyền chức từ trên xuống dưới, từ cao đến thấp đều được hưởng, đó là: Khi một dự án được cấp có thẩm quyền đồng ý hoặc gợi ý cho tiến hành các thủ tục ban đầu thì cá nhân hay nhóm người có quyền đó sẽ nhận được khoản “lại quả” thích ứng với tổng vốn đầu tư, sau khi dự án được phê duyệt.
Trước khi dự án được trình lên cấp có thẩm quyền xem xét quyết định, hiển nhiên phải có những cá nhân hoặc nhóm người chống lưng để dự án được phê duyệt và theo đó phải có khoản lại quả theo thỏa thuận.
Sau khi dự án được phê duyệt, dù dự án đấu thầu hay chỉ định thầu, ai trúng thầu là vấn đề quan trọng nhất, nghĩa là phải hậu tạ lớn nhất. Và tiếp theo là công đoạn thi công, công đoạn thực thi này là khâu trực tiếp rút ruột công trình.
Tiếp nữa là công đoạn nghiệm thu, mặc
cho đã có sự thỏa thuận trước, nhưng người trực tiếp nghiệm thu công trình cũng
phải có khoản “bồi dưỡng” thích đáng riêng để quá trình công việc được
trôi chaỷ hơn.
Và cuối cùng là khâu khai thác công trình (nếu là dự án BOT), theo kế hoạch thỏa thuận ban đầu quy định thời gian khai thác rất rõ ràng, trên cơ sở đó quy định giá thành phù hợp với nền kinh tế đất nước để thu vốn bảo đảm hài hòa lợi ích hai bên.
Ở Việt Nam, thực tế có thể kéo dài
thời gian khai thác hoặc nâng giá thành khai thác khác với thỏa thuận ban đầu
là việc bình thường, và đương nhiên giá chênh lệch đó được ăn chia đôi bên cùng
hưởng. Ngoài ra, chính sách kêu gọi vốn đầu tư từ nước ngoài, có sự thỏa thuận “lại
quả” của bên đầu tư đang diễn ra ở tầm vĩ mô, trong phạm vi bài viết này
chúng tôi không thể đề cập đến do vượt tầm nhìn của tác giả.
Tất cả các khâu buộc phải chi để dự
án thành hiện thực từ ý tưởng ban đầu cho đến công đoạn cuối cùng của dự án đều
được trích từ tổng vốn đầu tư của dự mà ra, nói chính xác là rút ruột công trình./.
No comments:
Post a Comment