Thứ Hai, ngày 10.08.2015       
Thưa quý thính gỉa, một chính quyền lúc nào cũng tuyên bố là lo cho dân, tập đoàn CSVN luôn luôn suy tôn giới nông dân, nhưng thực tế nhìn lại trong quá khứ cho đến hiện tại, đảng CS chỉ thụ hưởng trên xương máu của giai cấp công nông. Qua tiết mục Chuyện Chỉ Có Ở VN, đài ĐLSN xin gửi đến quý thính giả bài viết của Thanh Hải có tựa đề "Mậu dịch vùng biên phần 3" sẽ được Tâm Anh trình bày sau đây
Kể từ ngày hai nước Việt –Trung thông thương hàng hóa, thị trường 
Việt Nam trở thành một trong những yếu tố đẩy mạnh công nghiệp địa 
phương cuả Trung cộng phát triển. Điển hình là các loại xe máy, xe 
đạp, máy cày, hàng tiêu dùng được nhập vào Việt nam đều do công nghiệp 
địa phương cấp quận, huyện, thị xã, thị trấn của Trung cộng gia công 
sản xuất. Hàng triệu xe máy các loại của Trung Cộng được người Việt nam 
mua dùng vì giá chỉ bằng 1/3 giá của chiếc xe liên doanh sản xuất trong
 nước. Các xưởng cơ khí, các lò luyện sắt thủ công của tư nhân được ký 
hợp đồng sản xuất khung xe, cùng các phụ tùng khác. Các lò, xưởng tái 
chế biến các loại nhựa thủ công được ký hợp đồng sản xuất bộ phận chắn
 bùn, yếm xe. Các thiết bị được chuyển sang Việt nam lắp ráp rồi phân 
phối đi khắp các ngả trong nội địa. Do phương phápluyện kimbằng thủ công
 nên chỉ khoảng 6 tháng sử dụng, khung xe tróc sơn, rỉ sét, vành, nan 
hoa xe tróc mạ biến dạng. Nhiều vụ tai nạn xảy ra do phẩm chất xe không 
đúng tiêu chuẩn. Nhiên liệu tiêu hao hơn gấp ba lần so với xe trong 
nước. Điều ngạc nhiên là giới chức trách Việt nam không cần kiểm tra 
chất lượng, mà lại cho phép lưu hành một cách dễ dàng, nên số lượng 
tiêu thụ gia tăng mạnh trong một thời gian dài.
Một hình ảnh rất tương phản, ở bên kia biên giới người Tàu không 
một ai dùng các loại xe máy, cùng những hàng hóa do công nghiệp địa 
phương sản xuất, hàng chỉ được xuất sang bán Việt nam, được nhà nước 
Việt nam bảo hộ và được thịnh hành trong khoảng thời gian trên dưới 10 
năm. Với khoảng thời gian đó, người Tàu đã phất lên trở thành giàu có, 
nhờ vào hàng hóa thông thương với Việt nam. Đến nay trên thị trường Việt
 nam hoàn toàn vắng bóng xe đạp, xe máy, máy cày cầm tay và các mặt 
hàng tiêu dùng rẻ mạt do Trungcộng sản xuất, và thay vào đó là những 
hàng liên doanh của Trung cộng được đưa vào phù hợp với thị hiếu người 
tiêu dùng.
Nhằm kích thích kinh tế phát triển,các chợ giáp biên của phía Trung 
cộng thường dời đi nơi khác sau khoảng thời gian từ 5-7 hoặc 8 năm. 
Từ một vùng quê hẻo lánh, hiểm trở, sau một thời gian mở chợ, thông 
thương hàng hóa, bộ mặt kinh tế - xã hội vùng biên phía Trung cộng 
nhanh chóng sầm uất, đời sống nhân dân được cải thiện, và chợ sẽ được di
 dời đến một địa điểm khác, nhằm tiếp tục vực kinh tế xã hội ở đó phất 
lên, và cứ như vậy đời sống nhân dân vùng biên giới được nâng lên nhanh 
chóng.
Đó là sách lượt cuả Tàu, trong khi phiá Việt nam, mỗi lần chợ
 dời đi là một hẫng hụt, bị động, và phải chạy theo xây dựng khu chợ 
mới để đối xứng trong quan hệ trao đổi, mua bán. Kinh phí xây chợ, mở 
đường mới vào chợ, xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển dịch vụ... là một 
khoản chi phí không hề nhỏ trong điều kiện nền kinh tế như Việt nam. 
Phía biên giới Trung Cộng khi di chuyển, chợ cũ được duy trì trở thành
 chợ nội địa vì dân số đông, nhu cầu trao đổi mua bán của người dân 
trong vùng vẫn tiếp tục. Cònphía Việt nam khi chợ dời đi, khu vực này 
trở thành hiu quạnh, do dân cư thưa thớt. Đặc biệt trong quá trình mở 
cửa, người dân vùng biên kể cả dân giáp chợ, đời sống vẫn không khá lên
 được mấy, bộ mặt kinh tế xã hội cũng chẳng có gì thay đổi nhiều, nguyên
 nhân chính là do dân Việt ở vùng biên chỉ làm nhiệm vụ khuân vác 
thuê, vận chuyển hàng lậu từ bên kia vào nội địa. Một số dân bản địa 
thì làm dịch vụ dẫn đường, bố trí chỗ ở cho người khuân vác hàng thuê, 
nên còn chợ thì còn được kiếm sống qua ngày, hết chợ là hết tiền, 
nghèo vẫn hoàn nghèo.
Nhà nước Việt nam thiếu hẳn kế hoạch phát triển kinh tế vùng biên, 
nên từ ngày mở cửa đến nay người dân vùng biên vẫn không thể khá lên 
được, ngoại trừ một số ít có đầu óc kinh doanh, có dã tâm làm ăn trái 
phép, buôn bán hàng cấm.
Người Trung Cộng có nhiều thủ đoạn trong kinh doanh, biết nắm bắt 
thị hiếu của người tiêu dùng, và sẵn sàng chà đạp lên đạo lý để kiếm 
lời.
Một số hàng Việt nam phẩm chất hiện nay đủ sức đánh bại hàng Trung 
Cộng, tuy nhiên về giá cả thì luôn cao hơn hàng Trung Cộng, nên vẫn 
không thể làm chủ thị trường. Quạt điện Thống Nhất của Việt nam là một 
ví dụ điển hình, đã và đang đánh baị hàng Trung cộng chính hiệu. Nhưng 
chỉ trong thời gian ngắn loại quạt này của Việt nam xuất hiện, được bày 
bán la liệt bên Trung cộng, rồi hàng được xuất sang Việt nam với gía 
thấp hơn đến gần phân nửa, tìm hiểu ra mới hay Trung cộng đã bắt chước 
sản xuất y hệt của Việt nam, và được gắn nhãn hiệu Việt nam, làm người 
tiêu dùng không thể phân biệt đâu là giả, đâu là thật. Hãng Việt Tiến,
 một hãng may mặc nổi tiếng ở Việt nam, sản phẩm được bán sang nhiều 
nước trên thế giới, cũng đã bị Trung cộng đánh tráo bằng cách dùng hàng
 Trung cộng gắn mác Việt nam, đưa vào Việt nam bày bán ở khắp các chợ, 
các siêu thị làm cho hãng này điêu đứng vì sự gian trá, ma mãnh của 
người Tàu.
Trong quan hệ mậu dịch giữa Việt nam- Trung cộng, Việt nam luôn ở 
thế thua thiệt, một mặt do nền kinh tế của ta còn yếu kém, chưa đủ sức 
cạnh tranh, mặt khác nhà nước Việt nam không hề có chính sách bảo vệ cho
 hàng của dân mình, các cơ chế chính sách, thuế quan của Việt nam gần 
như buông trôi, thả nổi, trong khi bên phiá Trung cộng chính sách bảo 
vệ mậu dịch vùng biên luôn được coi trọng và thực thi triệt để. Chuyện 
chỉ có ở Việt nam.
Thanh Hải
 
No comments:
Post a Comment