Gian dối là bản chất của CSVN. Chính vì thế đảng cương quyết không chấp nhận tự do báo chí. Mời quý thính giả đài ĐLSN nghe phần Bình Luận của Hiền Lương với tựa đề: “Tự do báo chí: giấc mộng dài của người Việt suốt gần nửa thế kỷ” sẽ được Nguyên Khải trình bày để kết thúc chương trình phát thanh ĐLSN tối hôm nay.
Hiền Lương
Sau
tháng tư, 1975 ở Việt Nam chấm dứt báo chí tư nhân. Từ tháng 4-2020, nhiều tờ
báo ở Việt Nam bắt buộc chuyển sang hình thức tạp chí. Quyền tự do báo chí vẫn
là giấc mộng dài của đêm trường thông tin suốt 45 năm qua.
Những
nhận định ở trên là căn cứ từ các tiêu chí của Ngày Tự do Báo chí thế giới, viết
tắt là WPFD (World Press Freedom Day), là ngày Liên Hiệp Quốc dành riêng để cổ
vũ và nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của Tự do báo chí trên toàn thế giới,
ngày 3 tháng 5.
Theo
đề nghị của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc, ngày
20-12-1993, Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc đã công bố ngày 3 tháng 5 là “Ngày Tự
do Báo chí thế giới” với Nghị quyết số 48/432, nhằm để nâng cao nhận thức về tầm
quan trọng của tự do báo chí, và nhắc nhở các chánh phủ về bổn phận phải tôn trọng
và duy trì quyền tự do ngôn luận theo Điều 19 của Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền,
và đánh dấu ngày kỷ niệm Tuyên ngôn Windhoek, một tuyên ngôn về những nguyên tắc
tự do báo chí do các nhà báo châu Phi đưa ra năm 1991.
Trong
bài viết đăng trên tạp chí Cộng Sản – cơ quan lý luận chính trị của Ban chấp
hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, với tựa đề “Tránh “bẫy tự do báo chí”
trong thời kỳ hội nhập quốc tế”, có đoạn viết:
Xin trích, “Giăng chiếc “bẫy tự do báo chí”, các thế lực thù địch rêu
rao chúng ta không cho phép báo chí tư nhân là không có tự do ngôn luận, tự do
báo chí.
Chúng lợi dụng các vụ, việc một số nhà báo có hành
vi vi phạm pháp luật và đạo đức người làm báo bị xử lý để cho rằng tự do ngôn
luận, tự do báo chí ở Việt Nam bị hạn chế… Để đối phó với thực tế này và trong
bối cảnh thông tin đa chiều, đặc biệt là khi người đọc không phải tìm kiếm mà
thông tin được chủ động đưa đến cho người đọc (thậm chí người đọc phải tiếp nhận
thông tin một cách bị động – bị gửi vào facebook, zalo, viber…) thì việc cung cấp
những nguồn tin chính xác, kịp thời cho báo chí chính là cách thức nhanh nhất,
hiệu quả nhất để định hướng và quản lý thông tin.
Thời
gian qua, Đảng, Nhà nước đã áp dụng phương pháp quản lý vừa thuyết phục, nhắc
nhở, vừa cưỡng chế bằng các chế tài, công cụ pháp luật. Thuyết phục, nhắc nhở
là thông qua tổ chức định hướng thông tin thường xuyên, đặc biệt khi có các sự
kiện lớn, các sự việc nhạy cảm. Cưỡng chế là ban hành và thông qua các quy định
pháp luật để bảo đảm mọi công dân đều có quyền tự do ngôn luận, tự do báo
chí…”. Hết trích…
Trong
bài báo kể trên, tái xác nhận là ở Việt Nam không có báo chí tư nhân, và tái khẳng
định thông tin trên báo chí ở Việt Nam là có “định hướng”.
Nếu
đánh giá về quyền “tự do báo chí” từ Luật Báo chí hiện hành ở Việt Nam, cho thấy
khá rõ về những cách hiểu ‘tự do’ của nhà nước Việt Nam so với thế giới (ngoại
trừ Trung Quốc, Triều Tiên).
Luật
Báo chí Việt Nam có quy định “Không ai được lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền
tự do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, tổ chức và công
dân” – điều 13.2.
Điều
luật 13 là không ổn, vì nó mâu thuẫn với quy định về trách nhiệm của Nhà nước đối
với quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí. Cụ thể là ở nội
dung thứ nhất: “nhà báo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và được Nhà nước bảo
hộ”. Điều khoản đó có nghĩa nếu phóng viên, biên tập viên chưa được cấp thẻ nhà
báo tuy hoạt động trong khuôn khổ pháp luật song có thể không được Nhà nước bảo
hộ. Nội dung này có vẻ mang tính răn đe và ban phát không cần thiết và không thấy
được trách nhiệm phải có của Nhà nước.
Ở
nội dung thứ hai, “không ai được lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn
luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, tổ chức và công dân” thì nội
dung này hoặc là thừa, hoặc đã được đặt không đúng chỗ, thậm chí còn có vẻ răn
đe không cần thiết. Vì trong điều 9 quy định về “Các hành vi bị cấm” trong hoạt
động báo chí, đã đề cập vấn đề này.
Tuy
nhiên nếu nhìn từ Hiến pháp năm 2013, về việc đã quy định những quyền cơ bản,
trong đó có quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận, thì mục đích trước hết của một
đạo luật về báo chí, là nhằm đảm bảo cho mọi người có quyền tự do báo chí, tự
do ngôn luận đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013. Do vậy, đối tượng chế
tài của nó là Nhà nước; nó buộc Nhà nước phải đảm bảo quyền tự do báo chí, thể
hiện bằng những quy định cụ thể trong Luật Báo chí.
Nếu
Nhà nước hay bất kỳ chủ thể nào trong các chính sách, pháp luật hay hành động cụ
thể của mình trong thực tế không đảm bảo quyền tự do báo chí thì Nhà nước, chủ
thể đó đã vi phạm luật, vi phạm Hiến pháp và phải chịu chế tài.
Cho
nên, cách gọi tên đúng nhất phải là “Luật về Quyền tự do báo chí”. Trong khi đó
thì Luật Báo chí về nguyên tắc thể hiện một cách hiểu, và do đó là một cách làm
hoàn toàn ngược lại. Đối tượng chế tài của một đạo luật mang tên như vậy sẽ là
nhân dân, và đó sẽ là một đạo luật của Nhà nước, để cho Nhà nước nắm lấy mà cai
trị dân về mặt báo chí. Đạo luật đó sẽ nhằm đảm bảo quyền tự do báo chí của Nhà
nước chứ không phải của dân. Một Nhà nước nắm luật đó sẽ có quyền cho phép người
dân được tự do về mặt báo chí đến đâu, tức ngược với tinh thần của Hiến pháp.
Và
với cách hiểu ở trên góp phần giải thích vì sao là thành viên Liên Hiệp Quốc,
song Nhà nước Việt Nam không hề hưởng ứng Ngày Tự do Báo chí thế giới, mồng 3
tháng 5 hàng năm.
No comments:
Post a Comment