Kính thưa quý thính giả,
Trong sử Việt từ thế kỷ thứ 15 đến 19, có 2 nhân vật được suy tôn là Phu Tử, đó là Tuyết Giang Phu Tử Nguyễn Bỉnh Khiêm ở Hải Dương và La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp, người xứ Nghệ Tĩnh.
Tuy mất vào cuối đời Tây Sơn cách đây gần 220 năm, nhưng danh tiếng của La
Sơn Phu Tử vẫn được nhiều người kính trọng vì tính khí thanh
cao của một nhà Nho có tâm sáng, luôn hướng đến việc ích nước lợi dân.
Trong tiết mục
“Danh nhân nước Việt” tuần này, chúng tôi xin gửi đến quý thính giả bài “La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp” của Việt Thái qua giọng đọc của Minh Nguyệt để chấm dứt
chương trình phát thanh tối hôm nay.
Lục Niên phu tử trung hưng quốc,
Tam thế tằng tôn bái ngoại gia.
Tạm dịch là:
Phu tử sáu năm chấn hưng đất nước,
Cháu chắt ba đời kính bái ngoại
gia.
Đó là 2 câu đối do Tiến sĩ Nguyễn Văn Trình viết trong Từ Đường thờ La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp.
Nguyễn Thiếp tự là Khải Xuyên, sinh năm 1723 tại làng Nguyệt Ao, huyện La
Sơn, trấn Nghệ An. Ông có nhiều danh hiệu, được biết nhiều nhất là La Sơn Phu Tử,
Hạnh Am và Lạp Phong Cư Sĩ.
-Năm 20 tuổi, ông đỗ giải Hương, được bổ làm Huấn đạo rồi
thăng Tri huyện Thanh Chương.
-Năm 1756, ông làm Huấn đạo ở huyện Anh Đô, thăng Tri huyện
Thanh Giang.
-Năm 1775, Trần
Văn Kỷ, một cận thần của Nguyễn Huệ ra Thăng Long để chiêu mộ sĩ phu Bắc Hà về
với nhà Tây Sơn. Khi Trần Văn Kỷ hỏi Nguyễn Nghiễm, một Nguyên lão khả
kính về nhân tài của đất Việt thì được trả lời: “Đạo học sâu xa thì có Lạp Phong Cư Sĩ, văn phong phép tắc thì Thám hoa Nguyễn Huy Oánh, còn thiếu
niên đa tài đa nghệ chỉ có Nguyễn Huy Tự”. Nhân vật “đạo học sâu xa” có danh hiệu Lạp Phong Cư
Sĩ chính là Nguyễn Thiếp.
-Khi vua Quang Trung kéo đại quân Tây Sơn
ra Bắc quyết chiến với quân Thanh. Trên đường hành quân, Ngài ghé Nghệ An hỏi La
Sơn Phu Tử:“Quân Thanh sang đánh, nay ta đem quân
chống cự, về kế công thủ và số được thua, tiên sinh cho biết thế nào?”. Nguyễn Thiếp trả lời:“Quân Thanh ở xa, tình hình quân ta mạnh hay
yếu địch không biết, thế công thế thủ địch không hay. Chúa công ra đánh trận
này chẳng qua mươi ngày là giặc Thanh sẽ tan”.
Quả đúng như nhận định của La Sơn Phu Tử, ngày mùng 5 tháng Giêng
năm Kỷ Dậu (1789), quân Tây Sơn đánh tan 20 vạn quân Thanh tiến vào thành Thăng
Long.
Sau chiến thắng, vua Quang Trung mời ông vào Phú Xuân bàn việc nước. Ông
đã dâng lên một tấu chương lấy dân làm gốc với 3 mục: Quân đức, Dân tâm và Học
pháp. Nội dung Quân đức là khuyên vua nên theo đạo thánh hiền để trị nước. Dân tâm là dùng nhân nghĩa để thu phục lòng người. Học pháp là chăm lo việc giáo dục. Ông được bổ nhiệm làm Viện trưởng Viện Sùng Chính và được giao thực
hiện 3 chủ trương:
- Chấn hưng và đề cao chữ Nôm.
- Dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm.
- Đưa chữ Nôm trở thành văn tự chính thức của nước Việt.
Từ đó, ông hết lòng chăm lo dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm để dạy
học. Chỉ trong 2 năm, ông đã dịch xong các sách Tiểu học, Tứ thư, Kinh Thi và biên soạn xong 2 bộ sách Thi kinh giải âm và Ngũ
kinh toát yếu diễn nghĩa.
-Tháng 9 năm 1792,
vua Quang Trung đột ngột băng hà, sự nghiệp của ông bị dở dang. Năm 1802, triều Tây Sơn bị sụp đổ, ông lui về ở ẩn tại
trại Bùi Phong và qua đời ngày 6/2/1804, hưởng thọ 81
tuổi.
Ông để lại hơn
100 tác phẩm. Thơ văn của ông giản dị, mộc mạc,
được nhà thơ Phan Huy Chú khen là "thơ
đều tao nhã thanh thoát, lý thú thung dung, thực là lời nói của người có đức,
các tao nhân mặc khách khác không thể sánh bằng".
Về sau, nhiều con đường
và trường học được đặt
tên Nguyễn Thiếp để nhớ đến một nhân tài tâm đức của đất nước.
* * *
Theo nhiều giai thoại thì
khi ra Bắc lần đầu tiên, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đã 3 lần đích thân đến nhà
La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp để mời ông
ra giúp nước. Nhưng vì lòng trung thành với nhà Lê, nên mãi đến khi Lê Chiêu Thống
dẫn quân Thanh về xâm lược thì ông mới
quyết tâm phò tá vua Quang Trung, mà điển hình là danh xưng "Chúa Công" trong câu trả
lời của ông về kế sách đánh quân Thanh.
Cũng kể từ đó, vị kẻ sĩ
lỗi lạc ở Bắc Hà đã không tiếc công sức
trợ giúp triều đình Tây Sơn thống nhất sơn hà, chấn hưng đất nước và củng cố nền
độc lập. Lần đầu tiên trong lịch sử nước Việt, chữ Nôm được ấn định là Quốc Ngữ trong nền giáo dục,
thay vì chữ Hán như ngàn năm trước, nên La Sơn Phu Tử được xem là người có công lớn nhất trong cuộc
cách mạng văn hóa giáo dục thời này.
Điều đáng tiếc là vua
Quang Trung mất quá sớm, triều đình Tây Sơn sụp đổ, nên sứ mạng lịch sử của La
Sơn Phu Tử phải nửa đường gẫy
gánh. Thế nhưng, cái tên Nguyễn Thiếp vẫn
chói sáng trong nền văn học VN với những tác phẩm
đồ sộ mà hậu thế khó có ai sánh bằng.
Điều đáng suy nghiệm nhất
là, trong tình thế tối tăm của đất nước
hiện nay, dân tộc Việt rất cần nhiều kẻ
sĩ như La Sơn Phu Tử xuất hiện mới có hy vọng
chận đứng được hiểm họa mất gốc và mất nước.
No comments:
Post a Comment