Thứ Bảy 05.03.2016
Kính thưa quý thính giả, Lịch sử Việt Nam thời cận đại ghi lại nhiều chí sĩ yêu nước, thương dân, bất khuất trước quân Pháp xâm lược.Trong tiết mục "Danh nhân nước Việt" tuần này, chúng tôi xin gửi đến quý thính giả bài "Chí sĩ Tăng Bạt Hổ" của Việt Thái qua sự trình bày của Bảo Trân để chấm dứt chương trình tối hôm nay.
Chí sĩ Tăng Bạt Hổ, tên thật là Tăng Doãn Văn, tự là Sư Triệu, hiệu
là Điền Bát, là một sĩ phu tham gia chống Pháp vào cuối thế kỷ 19, đầu
thế kỷ 20. Ông sinh ngày 19/7/1858 tại làng An Thường, huyện Hoài Ân,
tỉnh Bình Định.
Năm 1872, khi mới 14 tuổi, Tăng Bạt Hổ đã tham gia chiến đấu chống
Pháp trong hàng ngũ tướng Lưu Vĩnh Phúc của quân Cờ Đen. Sau thất bại
của vụ binh biến đêm 22 tháng 5 năm Ất Dậu ở kinh thành Huế do phe chủ
chiến Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết cầm đầu, vua Hàm Nghi rút về căn
cứ Tân Sở, xuất chiếu Cần Vương kêu gọi sĩ phu cùng toàn dân đứng lên
kháng chiến chống Pháp. Hưởng ứng hịch Cần Vương, Tăng Bạt Hổ cùng với
Phạm Toàn chiêu mộ binh lính, rèn đúc vũ khí xây dựng chiến khu chống
Pháp tại vùng rừng núi có địa thế hiểm trở núi tại huyện Hoài Ân.
Lực lượng kháng chiến quân tại tỉnh Bình Định phát triển mạnh mẽ và
dần dần quy tụ dưới ngọn cờ lãnh đạo của Mai Xuân Thưởng. Tăng Bạt Hổ
liên kết với lực lượng của Mai Xuân Thưởng và được giao nhiệm vụ giữ mặt
trận phía bắc Bình Định. Ông cùng với Bùi Điền xây dựng và củng cố thêm
khu Chóp Chài và hai cứ điểm tại đèo Phủ Cũ và đèo Bình Đê.
Trước tình thế này, thực dân Pháp và triều đình Nguyễn cử Nguyễn Thân
và Trần Bá Lộc đem quân đàn áp phong trào kháng chiến ở Bình Định.
Đầu năm 1886, Tăng Bạt Hổ cử hai tướng Bùi Điền và Đỗ Duyệt đem quân
giao chiến với Nguyễn Thân nhưng bị thất bại. Ông tiếp tục chiêu mộ thêm
binh sĩ, củng cố thêm các đồn lũy để chống lại quân của Nguyễn Thân,
nhưng trước thế mạnh của địch, hầu hết các chiến lũy của nghĩa quân đều
bị phá vỡ.
Đầu năm 1887, Nguyễn Thân điều động đại quân đến triệt phá mật khu
Kim Sơn, vây bắt Tăng Bạt Hổ. Mặc dù Nguyễn Thân không phá được mật khu
Kim Sơn, nhưng vì quân ít và vũ khí thô sơ nên cuối cùng nghĩa quân tan
rã, phải tản mát đến các bản làng Tây Nguyên.
Sau khi cuộc khởi nghĩa bị đàn áp, Tăng Bạt Hổ vượt núi sang Lào,
Xiêm, Trung Hoa, Nga và Nhật để tìm Lưu Vĩnh Phúc, nhưng tướng Lưu Vĩnh
Phúc đã từ trần. Ông quyết định theo nghề hàng hải, làm thủy thủ cho tàu
buôn để quan sát nền văn minh của các nước và tìm thêm đồng chí. Chính
vì thế ông thường qua lại các đảo Hoành Tân, Trường Kỳ của Nhật và sau
đó ít năm, ông thông thạo tiếng Nhật và được tuyển mộ vào Hải quân Nhật
Bản.
Trong chiến tranh Nga - Nhật, vì căm hờn thực dân Pháp, ông giúp Nhật
đánh Nga, nổi tiếng là một chiến binh quả cảm, có công trận trong hai
trận chiến Đài Liên và Lữ Thuận.
Ngày khải hoàn, ông được dự bữa đại yến do Minh Trị Thiên Hoàng thiết
đãi. Khi cầm chén rượu do Thiên hoàng tự tay rót cho, ông uống cạn và
khóc lớn. Thiên hoàng hỏi, ông giãi bày nỗi lòng: "Tôi vốn không phải là
người Nhật mà là một người Việt Nam lưu vong. Sau khi thất bại trong
việc chống Pháp, tôi trốn qua Xiêm, qua Trung Hoa rồi tới đây, may được
Bệ hạ tin dùng. Nay thấy quý quốc thắng Nga, làm vẻ vang cho giống da
vàng, tôi nghĩ đến tình cảnh nước tôi mà không cầm được giọt lệ".
Hết thảy các người dự yến đều chăm chú nhìn vẻ mặt cương nghị và lắng
nghe lời khảng khái của ông. Thiên hoàng Minh Trị khen ông là người ái
quốc, an ủi ông mấy lời. Từ đó giới cầm quyền Nhật rất có cảm tình với
ông.
Ông làm quen với các nghị sĩ Nhật như Khuyển Dưỡng Nghị, Đại Ôi Trọng
Tín, tỏ ý muốn cầu viện Nhật để đánh đuổi Pháp. Họ khuyên ông hãy chờ
cơ hội vì nước Nhật đang bận đánh Nga và cũng chưa có hiềm khích gì với
nước Pháp. Và họ khuyên ông cùng giới sĩ phu Việt là trước hết phải phát
triển phong trào duy tân trong nước để nâng cao dân khí, dân trí. Nhưng
muốn duy tân thì không thể trông cậy ở nước Pháp vì người Pháp không
thực tâm muốn khai hóa VN, nên phải lựa những thanh niên tuấn tú đưa qua
Nhật để họ giúp huấn luyện và đào tạo.
Khuyến Dưỡng Nghị, sau này là thủ tướng Nhật, cũng hứa tận lực giúp
cho các học sinh Việt Nam được phép cư trú và được theo học miễn phí.
Tăng Bạt Hổ nhận thấy lời khuyên hữu lý nên xin phép chính phủ Nhật cho
ông hồi hương. Về tới hải Phòng vào cuối năm 1904, ông về Quảng Nam, hội
họp với Sào Nam và Kỳ Ngoại Hầu Cường Để. Đầu năm sau, ông đưa Sào Nam
và Đặng Tử Kính qua Nhật để cầu ngoại viện và tổ chức phong trào Đông
Du. Năm 1905, ông lại về nước đem theo bài "Khuyến khích thanh niên du
học" của cụ Phan Bội Châu để truyền bá.
Vì nghe tiếng cụ Lương Văn Can nghĩa khí, được nghĩa hội văn thân ở
miền Bắc tín nhiệm, ông tìm đến để bàn tình hình trong nước cùng kế
hoạch lâu dài. Tại đây ông nhờ cụ Lương giới thiệu các thanh niên ưu tú
sang Nhật du học. Sau cuộc nói chuyện này, Lương Ngọc Quyến và Lương
Nghị Khanh trở thành hai sinh viên Đông Du đầu tiên.
Năm 1906 trên đường từ Nam ra Huế ông lâm bệnh nặng và từ trần khi chưa đến 50 tuổi.
Ông được các chí sĩ khác an táng trên một gò cao thuộc ấp Thế Lại
Thượng. Năm 1956, nhân sĩ Lê Ngọc Nghị đã cùng thân hào xã Thế Lại
Thượng tổ chức lễ truy điệu và cải táng hài cốt Tăng Bạt Hổ trong khu
lăng mộ Phan Bội Châu.
* * *
So với huyền thoại Hồ Chí Minh mà người cộng sản ra sức thêu dệt, thì
HCM chỉ là con đom đóm so với một vì sao Tăng Bạt Hổ cả đời tận tụy vì
vận mệnh dân tộc, kể từ khi mới lên 14 tuổi. Tuy cũng bôn ba hải ngoại,
nhưng Tăng Bạt Hổ không phải làm bồi bếp trên tàu Tây mà lại được nước
Nhật mến mộ vì tài năng hải hành và khả năng tác chiến của ông.
Chính vì thế, đọc tiểu sử Tăng Bạt Hổ, người ta không khỏi ngậm ngùi
thương tiếc cho một sĩ phu văn võ song toàn đã được cả triều đình nước
Nhật kính nể vì tấm lòng ái quốc của ông. Ông xứng đáng là tấm gương
sáng trong khát vọng "khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh" mà nhiều
người Việt đang đấu tranh để đất nước có được ngày hồi sinh sau 70 năm
sống dưới ách cộng sản!
Việt Thái
No comments:
Post a Comment