Thứ Tư, 09.03.2016
Các quốc gia dân chủ đều có bầu cử, nhưng không phải có bầu cử là có dân chủ. Các quốc gia độc tài vẫn có bầu cử, nhưng bầu cử hoàn toàn gian trá và thiếu minh bạch như tại Việt Nam. Mời quý thính giả đài ĐLSN nghe phần Bình Luận của Nguyễn Hưng Quốc với tựa đề: "Bầu cử và dân chủ" sẽ được Song Thập trình bày để kết thúc chương trình phát thanh tối hôm nay.
Nhân nói về phong trào tự ứng cử vào Quốc hội Việt Nam (trong bài
trước), chúng ta thử bàn về mối quan hệ giữa bầu cử và dân chủ.
Trước hết, cần khẳng định ngay, không có quốc gia dân chủ nào lại
không có bầu cử. Có thể xem bầu cử là biểu hiện đầu tiên và rõ rệt nhất
của dân chủ. Lý do là dân chủ, tự bản chất, là thiết chế tạo điều kiện
cho người dân có quyền và có cơ hội thực thi quyền lựa chọn giới lãnh
đạo cũng như tác động đến các chính sách quan trọng trong việc đối nội
cũng như đối ngoại của quốc gia. Các cuộc bầu cử được tổ chức thường kỳ
nhằm bảo đảm những nhà lãnh đạo phải là những người được sự tín nhiệm
của đa số (trên 50%) dân chúng, hơn nữa, đó cũng là cách giới hạn thời
gian cầm quyền của họ (trong ba, bốn hoặc năm năm, tùy quốc gia).
Tuy nhiên, từ kinh nghiệm cũng như từ lịch sử, chúng ta cũng có thể
khẳng định một sự thật khác: Không phải cứ hễ có bầu cử là có dân chủ.
Trong một cuộc phỏng vấn trước lúc chính thức nhậm chức vào đầu năm
2009, Tổng thống Barrack Obama nhận định: "Tôi nghĩ thật là lầm lẫn khi
đánh đồng dân chủ và các cuộc bầu cử. Bầu cử không phải là dân chủ như
cái điều mà chúng ta hiểu". Mà không cần phải chờ đến câu tuyên bố của
Obama, chỉ cần nhìn lại lịch sử cũng như tình hình chính trị thế giới
hiện nay, chúng ta cũng có thể thấy vô số các nhà độc tài được lên cầm
quyền từ các cuộc bầu cử. Hitler ở Đức, Ferdinand Marcos ở Philippines
là những ví dụ gần gũi nhất. Hiện nay, tại nhiều quốc gia, từ Nga đến
Iran, Syria, Zimbabwe, Venezuela cũng như nhiều nước khác ở châu Phi và
Nam Mỹ, tuy cũng có bầu cử nhưng, tự bản chất, các nhà lãnh đạo vẫn là
những tên độc tài.
Vậy khi nào thì bầu cử là biểu hiện của dân chủ?
Điều kiện đầu tiên để một cuộc bầu cử được xem là dân chủ là nó phải
được tiến hành một cách tự do và minh bạch. Khái niệm tự do bao gồm ba
khía cạnh: Tự do ứng cử; Tự do vận động tranh cử; và Tự do có những quan
điểm và chính sách riêng, khác với nhà cầm quyền. Sự minh bạch cần được
thể hiện trong toàn bộ tiến trình bầu cử, đặc biệt trong giai đoạn kiểm
phiếu. Để tạo sự tin cậy, hầu hết những quốc gia khởi sự dân chủ hóa
đều mời các phái đoàn quốc tế đến chứng kiến và kiểm tra việc bầu cử.
Ở Việt Nam, cho đến nay, việc bầu cử vừa không có tự do vừa không hề
minh bạch. Dân chúng khái quát hóa việc bầu cử trong một công thức rất
hay: "Đảng cử, dân bầu". Tất cả các ứng cử viên đều do đảng, thông qua
Mặt trận Tổ quốc, một tổ chức ngoại vi của đảng, lựa chọn. Qua các cuộc
sàng lọc được gọi là "hiệp thương", các ứng cử viên độc lập đều bị loại
bỏ. Hơn nữa, việc kiểm phiếu hoàn toàn nằm trong tay nhà nước. Những
người thắng cử, đặc biệt, những cán bộ cao cấp, bao giờ cũng đạt đến
trên 90%, thậm chí, có khi 99% phiếu bầu (1). Cuối cùng, Quốc hội, với
trên 90% là đảng viên, chỉ là một chi bộ được mở rộng, ở đó, người ta
phải chấp hành nguyên tắc "tập trung dân chủ", nghĩa là nhất nhất đều
theo chỉ thị của cấp trên (được hiểu là Ban Chấp hành Trung ương). Chính
vì thế, ở Việt Nam, hầu như không bao giờ Quốc hội có một tiếng nói
ngược lại các chỉ thị của Bộ Chính trị. Đó không phải là dân chủ.
Cũng cần lưu ý là, ở Việt Nam, người dân chỉ được phép bầu cử Quốc
hội, nhưng cơ quan có thực quyền cao nhất trong sinh hoạt chính trị cả
nước là Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị thì lại chỉ được các
đại biểu đảng viên bầu lên. Dân chúng hoàn toàn là những người ngoại
cuộc. Đó càng không phải là dân chủ.
Điều kiện thứ hai để có một cuộc bầu cử dân chủ là nó phải có một nền
tảng pháp quyền vững chắc. Trong chính trị học Tây phương, người ta
phân biệt hai khái niệm pháp quyền (rule of law) và pháp trị (rule by
law) (2). Một nhà nước pháp quyền là nhà nước đặt mọi người, từ giới cai
trị đến giới bị trị, dưới pháp luật. Mọi chính sách và mọi hành xử đều
phải đúng theo tinh thần thượng tôn pháp luật. Ở nhà nước pháp trị,
ngược lại, giới cầm quyền sử dụng pháp luật để cai trị dân chúng, trong
khi chính họ thì lại nằm ngoài hoặc ở trên luật pháp. Ở Việt Nam, người
ta thường tự xưng là nhà nước pháp quyền nhưng thực chất họ chỉ là nhà
nước pháp trị. Chỉ có dân chúng là bị buộc phải tuân thủ theo pháp luật,
còn những người lãnh đạo (hoặc do dân bầu hoặc đảng viên bầu) thì lại
chỉ tuân thủ theo luật lệ của đảng. Hậu quả, người ta thường thấy nhất
là: Một nhân viên kế toán quèn làm thất thoát vài triệu đồng thì bị mang
ra toà xét xử, nhưng một cán bộ gộc làm thất thoát cả hàng ngàn tỉ đồng
thì chỉ bị xét xử trong nội bộ đảng với một án phạt thường thấy nhất là
cảnh cáo.
Điều kiện thứ ba để có bầu cử thực sự dân chủ là quyền lực phải được
phân tán và được kiểm soát. Có nhiều biện pháp để phân tán và kiểm soát
quyền lực. Một là cơ chế tam quyền phân lập, ở đó, lập pháp và tư pháp
có quyền kiểm soát hành pháp. Hai là sự hiện diện của các đảng phái đối
lập với chức năng theo dõi và phản biện lại các chính sách của đảng cầm
quyền. Ba là quyền tự do ngôn luận để giới truyền thông cũng như dân
chúng nói chung có thể phát hiện và phê phán các chính sách cũng như
hành động sai trái của các chính trị gia, kể cả những người thuộc giới
lãnh đạo cao nhất trong cả nước. Ở Việt Nam, ngược lại, mọi quyền lực
đều tập trung vào đảng Cộng sản. Đảng làm luật và đảng kiểm soát luật.
Đảng thực thi quyền cai trị và cũng đảng kiểm soát việc thực thi quyền
lực ấy. Trong bối cảnh như thế, mọi đại biểu do dân chúng bầu lên đều
chỉ là những con rối trong guồng máy lãnh đạo của đảng.
Nói một cách tóm tắt, ở Việt Nam, việc bầu cử Quốc hội, tự bản thân
nó, không dân chủ. Nhưng ngay cả khi nó được tiến hành một cách dân chủ,
nghĩa là ở đó dân chúng được tự do chọn lựa những người đại diện cho
mình thì trong cơ chế pháp trị và độc quyền hiện nay việc bầu cử ấy cũng
không dẫn đến dân chủ.
Nói cách khác, để dân chủ hoá Việt Nam, vấn đề không phải chỉ là thay đổi cách bầu cử mà là ở việc thay đổi cơ chế chính trị.
Nguyễn Hưng Quốc
No comments:
Post a Comment