Thay vì hành xử như một cường quốc có trách nhiệm, Bắc Kinh lại hành xử như một côn đồ. Chính vì thế hầu như toàn thể nhân loại văn minh đều đoàn kết, từ Âu sang Á, hầu dạy cho Tập Cận Bình một bài học để đời.
Mời quý thính giả đài ĐLSN nghe phần Bình Luận của Hiếu Chân với tựa đề: “NATO mở rộng sang Châu Á?” sẽ được Nguyên Khải trình bày để kết thúc chương trình phát thanh ĐLSN tối hôm nay.
Hiếu Chân
Hội nghị thượng đỉnh Minh Ước Bắc Đại Tây Dương (North Atlantic Treaty Organization – NATO) hai ngày 11 và 12 Tháng Bảy tại Vilnius, thủ đô Lithuania, được dự đoán sẽ đánh dấu một bước chuyển dịch quan trọng trong lịch sử của liên minh.
Trước hội nghị, các cuộc bàn luận đều nhắm vào việc kết nạp Thụy Điển và Ukraine. Đến nay, cả hai sự kiện này đều gây chia rẽ sâu sắc trong nội bộ liên minh, làm tốn kém nhiều giấy mực của báo chí. Trong một động tác quay xe bất ngờ, hôm Thứ Hai, 10 Tháng Bảy, Tổng Thống Recep Tayyip Erdogan của Thổ Nhĩ Kỳ tuyên bố ủng hộ Thụy Điển gia nhập NATO, chấm dứt sự phản đối kéo dài của Ankara. NATO cũng đồng ý gửi thư mời Ukraine gia nhập, nhưng chưa nói rõ thời điểm và cách thức vì Ukraine chỉ có thể vào NATO sau khi chiến tranh với Nga chấm dứt.
Sự chú mục của truyền thông quốc tế vào
con đường NATO đầy trắc trở của Thụy Điển và Ukraine che mờ một sự kiện khác
không kém phần quan trọng: Xu hướng của NATO mở rộng sang Châu Á để đối phó với
sự bành trướng ảnh hưởng quân sự của Trung Quốc.
Nói như vậy nghe có vẻ khó hiểu vì NATO là tổ chức an ninh hai bờ Đại Tây Dương, được thành lập năm 1949 với mục tiêu ngăn chặn đà mở rộng ảnh hưởng của Liên Xô sau Thế Chiến 2. Cho đến nay, như tên gọi, NATO vẫn là hiệp ước phòng thủ chung của Châu Âu và Bắc Mỹ đối kháng với Nga và Tổ Chức Hiệp Ước An Ninh Tập Thể (CSTO) do Nga cầm đầu, quy tụ các nước Armenia, Belarus, Kazakhstan, Kyrgyzstan, và Tajikistan – tất cả đều thuộc Liên Xô cũ.
Lo sợ bị biến thành một Ukraine khác, hai
nước Phần Lan và Thụy Điển đã từ bỏ chính sách trung lập và vội vã nộp hồ sơ
gia nhập NATO. Phần Lan trở thành thành viên thứ 31 của NATO hồi Tháng Tư, và
Thụy Điển được Thổ Nhĩ Kỳ bật đèn xanh tại Vilnius, và sẽ trở thành thành viên
thứ 32 trong một ngày không xa. Ukraine có thể là thành viên thứ 33 khi cuộc
chiến kết thúc, hoặc trên chiến trường hoặc qua đàm phán, với phần thắng thuộc
về Kiev.
Ở phương Đông, Chủ Tịch Tập Cận Bình của Trung Quốc cũng có cơn ác mộng như vậy, một phần do mối liên kết “ngưu tầm ngưu mã tầm mã” của ông với ông Putin, một phần do chính sách hung hăng, đe dọa các nước láng giềng của chính Bắc Kinh.
Ông Tập không chỉ cam kết một mối quan hệ “không giới hạn” với ông Putin mà Bắc Kinh luôn đứng về phía Nga, đổ lỗi cho Mỹ và NATO gây hấn để Nga phải động binh. Sự lựa chọn chính sách như vậy đặt Trung Quốc vào thế đối đầu với NATO.
Trung Quốc cũng hành xử với láng giềng ở Đông Á y hệt Nga làm ở Châu Âu, lấy sức mạnh quân sự và đe dọa chiến tranh để cưỡng ép các nước nhỏ. Các lân bang của Trung Quốc từ Nhật, Đài Loan, đến Việt Nam, Philippines đều lo sợ một ngày nào đó sẽ phải đương đầu với đội quân hùng mạnh của Bắc Kinh như tình cảnh của Ukraine hiện nay.
Đó là lý do tại sao họ nhắm tới NATO và mô
hình phòng thủ chung của tổ chức này. Bắt đầu từ năm ngoái, hội nghị thượng đỉnh
của NATO luôn có sự tham dự của các nguyên thủ quốc gia Châu Á. Năm nay, các
nhà lãnh đạo của Nhật, Nam Hàn, Úc, và New Zealand – gọi chung là nhóm Asia-Pacific
Four – đã có mặt tại Vilnius, tham gia thảo luận về tương lai của NATO trong bối
cảnh địa chính trị mới, khi các điểm nóng xung đột có cả ở Châu Á với chính
sách bành trướng của Trung Quốc. Theo nghị trình của hội nghị, Asia-Pacific
Four sẽ bàn với NATO việc gia tăng hợp tác về an ninh hàng hải, đặc biệt là ở
Biển Đông, và an ninh mạng điện toán đối phó với Trung Quốc.
Không cần là chuyên gia cũng thấy, một cuộc xung đột hoặc chiến tranh ở Biển Đông, ở eo biển Đài Loan, sẽ là đòn giáng mạnh vào an ninh và thịnh vượng của chính Châu Âu.
Không chỉ tuyên bố bằng lời, Tháng Mười năm ngoái, NATO cử 20 quan chức quân sự đến Đài Loan để thảo luận với nước chủ nhà về năng lực quân sự của Bắc Kinh. Trước đó, các nhà lãnh đạo Asia-Pacific Four lần đầu tiên tham dự thượng đỉnh NATO ở Tây Ban Nha vào Tháng Sáu, 2022 sau khi cử bộ trưởng Quốc Phòng của họ tham gia hội nghị của Hội Đồng Quân Sự NATO ở Brussels, Bỉ, và đầu năm nay NATO tiết lộ ý định mở văn phòng liên lạc tại Tokyo, Nhật. Các chiến hạm của Anh, Đức, Pháp đã bắt đầu xuất hiện trên Thái Bình Dương, phối hợp tuần tra với Hoa Kỳ và Nhật cho dù năng lực hải quân của các nước Châu Âu có nhiều hạn chế.
Về phần mình, các nước Châu Á cũng mở rộng hợp tác với NATO trong cuộc chiến Ukraine. Nhật tham gia tích cực vào các biện pháp cấm vận kinh tế Nga, còn Nam Hàn đang chuyển dần từ chỗ viện trợ cho Kiev những thiết bị không sát thương sang cung cấp đạn đại bác 155mm cho Mỹ để Mỹ chuyển cho quân đội Ukraine trong lúc đạn pháo bị thiếu trầm trọng.
Chưa có dấu hiệu cho thấy sẽ có một liên minh quân sự kiểu “NATO Châu Á” nhưng xu hướng của NATO “lấn sân” sang Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương để đối phó với Trung Quốc là có thật và đang được xúc tiến.
Trung Quốc tất nhiên rất khó chịu.
Ông Uông Văn Bân, người phát ngôn Bộ Ngoại Giao Trung Quốc, tố cáo NATO “bành trướng về hướng Đông, can thiệp vào các vấn đề khu vực và kích động xung đột giữa các khối nước.”
Ông Triệu Tiểu Trác, một đại tá quân đội Trung Quốc, cho biết Bắc Kinh rất lo ngại về mối liên kết giữa NATO và các đồng minh quân sự của Mỹ ở Châu Á như Nhật và Nam Hàn. “Nhiều năm qua, sự tồn tại của NATO luôn cần có kẻ thù. Nga là kẻ thù và nay thì Trung Quốc bị nhắm tới,” ông Triệu nói.
Biết vậy, nhưng thay vì thay đổi cách hành
xử sao cho thân thiện thì Bắc Kinh vẫn ỷ vào sức mạnh quân sự, sức mạnh thị trường,
để gây thù chuốc oán khắp nơi. Cuộc xâm lăng của Nga cho thấy trong thế giới
ngày nay bạo lực không phải là giải pháp tốt cho các mâu thuẫn quốc tế và để
tránh xung đột với Mỹ, với NATO, Bắc Kinh nên học cách làm một cường quốc có
trách nhiệm.
No comments:
Post a Comment