Kính thưa quý thính giả,
Một vị hoàng đế được xem là minh quân trong
sử Việt. Ngài và phụ hoàng Trần Nhân Tông đều được sách sử ghi là 2 nhà chính trị tài giỏi, là tấm
gương sáng trong việc bảo vệ đất nước và là niềm tự hào của dân tộc.
Trong tiết mục “Danh nhân nước Việt”
tuần này, chúng tôi xin gửi đến quý thính giả
bài “Vua Trần Anh Tông” của Việt Thái qua giọng đọc của Minh Nguyệt để
chấm dứt chương trình phát thanh tối hôm nay.
Trần Anh Tông tên là Trần Thuyên, sinh ngày 25/10/1276, là con của vua Trần Nhân Tông và bà Khâm Từ Bảo Khánh Hoàng Hậu. Ngài lên ngôi vào tháng 4 năm 1293, lấy niên hiệu là Hưng Long.
-Năm 1293, vua Nguyên là Hốt Tất Liệt sai Thượng
thư Bộ binh Lương Tằng ép ngài sang triều kiến. Ngài cáo bệnh không đi, chỉ cử Đào Tử Kỳ đi triều cống. Hốt Tất Liệt nổi giận giam Đào Tử Kỳ và chuẩn bị đưa quân sang đánh Đại Việt. Nhưng việc chuẩn bị chưa thành thì Hốt Tất Liệt qua đời, tân hoàng đế Nguyên Thành Tông ra lệnh bãi
binh và trả Đào Tử Kỳ về nước, nên việc ngoại giao 2 nước Nguyên - Việt trở lại bình thường. Sau năm 1294, tình hình biên giới phía Bắc ổn định, nhưng phía Tây Nam, vua Trần Anh Tông phải đối mặt với các cuộc xâm lấn của Ai Lao.
-Tháng 8 âm
lịch năm 1294, Thượng hoàng Trần Nhân Tông thân chinh đi dẹp loạn, đoàn quân
tiên phong của Đại Việt bị quân Ai Lao vây đánh. Tướng Phạm Ngũ Lão phải thúc quân phá vòng vây và đánh
tan quân Ai Lao, được tuyên dương công trạng
và nhận binh phù bằng vàng.
-Năm 1298, quân
Ai Lao lại tràn sang
chiếm sông Chàng Lang, vua Trần
Anh Tông điều quân phản
công và chiếm lại lãnh thổ.
-Đến tháng 3 năm 1301, một lần
nữa Ai Lao tấn công Đà Giang. Theo lệnh Ngài, Phạm Ngũ Lão đem quân tới Mường Mai phá tan đạo quân Ai Lao. Do chiến công này,
Phạm Ngũ Lão được phong chức Thân vệ Đại tướng quân.
-Tháng 6 âm lịch năm 1306,
Ngài đồng ý gả Huyền Trân công chúa cho Chế Mân. Huyền Trân về Chiêm Thành được phong làm
hoàng hậu. Chế Mân dâng châu Ô và châu Rý cho Đại Việt.
Ngài đổi tên châu Ô thành châu Thuận và
châu Rý thành châu Hóa. Dân Chiêm ở 2 châu này không chịu phục tùng, nên Ngài sai Đoàn Nhữ Hài đến thu phục
nhân tâm. Thông qua việc bổ nhiệm quan chức, phân phát ruộng đất và xá miễn thuế nhiều năm cho dân địa phương, nhờ vậy an ninh tại vùng đất phía Nam được ổn định.
Một năm sau hôn lễ của Huyền
Trân, Chế Mân qua
đời vào tháng 5 năm 1307. Ngài sai Hành khiển Trần Khắc Chung sang viếng tang và đưa Huyền Trân công chúa về Đại Việt.
Giống như các tiên đế, Ngài là một Phật tử mộ đạo. Năm 1299, Ngài xuất gia và sáng lập Thiền phái Trúc Lâm, giáo hội đầu tiên của Phật giáo Việt Nam. Ngài đóng góp rất nhiều cho sự phát triển của
giáo hội qua việc khuyến khích các Thiền sư đi thuyết
pháp ở nhiều nơi, vận động hoàng gia cúng dường tiền của và vật liệu xây chùa.
Ngài chính là người đã khuyến khích
các cao tăng như Nhị tổ Pháp Loa, Quốc sư
Liễu Minh, thuyết giảng kinh sách Phật giáo và Thiền tông tại nhiều nơi, điển hình là chùa Tư Phúc (Thăng
Long) và am Thường Lạc (Thiên Trường). Đồng thời, Ngài xây nhiều tượng Phật lớn và kêu gọi vương hầu cống hiến hàng trăm
mẫu ruộng cho các trung tâm tu học.
Các tác giả Đại Việt sử ký toàn
thư đều ca ngợi Ngài là vị vua có tính khiêm tốn, hòa nhã. Đặc
biệt, Ngài rất sáng suốt, thận
trọng về hình phạt và quyết đoán mọi việc trong triều đình.
Trong thời Ngài trị vì, nước Đại Việt phát triển hưng thịnh, dù phải chống lại nhiều đợt
xâm lấn của quân Ai Lao ở phía Tây. Ngài còn ngăn chận quân Nguyên xâm lấn ở phương Bắc và mở rộng
lãnh thổ về phương Nam.
-Năm 1314, Ngài nhường ngôi
cho con nhưng vẫn tiếp tục hỗ trợ việc
triều chính. Ngài đặt quy chế mới về trang phục cho bá quan văn võ, chú trọng việc
chiêu hiền đãi sĩ, mở khoa thi Thái Học Sinh để tìm nhân tài giúp nước.
Ngài tạo sự hưng thịnh về chính trị, kinh tế và văn hóa nên được triều thần tôn tặng danh hiệu Ứng Thiên Quảng Vận Nhân Minh, Thánh Hiếu Hoàng Đế.
*****
Với 3 lần kháng chiến chống quân Nguyên - Mông, nhà Trần đã lập
nhiều công lao cho đất nước. Đặc biệt là Hội nghị Diên
Hồng, một Hội nghị biểu hiện yếu tố vì dân, có giá trị với ý niệm “dân chủ” mà
về sau được xác lập trong lịch sử cận đại.
Quyết sách được định đoạt tại Hội nghị này chỉ
là sự lựa chọn nên
“hòa” hay nên “chiến”. Kết quả, tất cả đều
đồng lòng “quyết chiến”. Từ đó hai chữ “Diên Hồng” đã trở thành biểu trưng cho ý chí thống
nhất của một dân tộc, thể hiện sự đồng tâm giữa triều đình và dân chúng.
Phụ hoàng của Ngài, vua Trần Nhân Tông đã để lại lời
nhắn nhủ như một di chúc cho đời sau: “Một tấc đất của tiền nhân để
lại, cũng không được để lọt vào tay kẻ khác”.
Trong giai đoạn Tổ quốc lâm nguy hiện nay, Hội nghị Diên
Hồng và di chúc của vua Trần Nhân Tông còn mang ý
nghĩa như một nguyên lý, tạo nên sức mạnh “đồng tâm”. Và nhất là tinh
thần yêu nước của Ngài rất cần thiết
trong mục tiêu tranh đấu cho nền độc lập tự chủ trước nguy cơ “Hán hóa” của Tàu Cộng phương Bắc.
No comments:
Post a Comment