Thứ Bảy, ngày 12.10.2013
Kính thưa quý thính giả,
Một người đã sống 13 năm trong tù,
trong đó hết 9 năm biệt giam, mà không bao giờ được đưa ra xét xử. Khi
bị giam cầm trong hoàn cảnh thiếu thốn và luôn bị đày đọa, mà không bao
giờ mất tinh thần, không bao giờ căm hận đối với những người giam giữ
mình và người đã dùng tình thương để cảm hóa được họ. Một người được
phép ra nước ngoài chữa bệnh, sau đó bị bạo quyền cấm không cho trở về
quê hương xứ sở. Thưa, người đó là Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận. Trong
tiết mục "Danh nhân nước Việt" tối nay, chúng tôi xin gửi đến quý thính
giả bài viết "Ðức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận" của Việt Thái qua giọng đọc
của Tam Thanh để biết thêm về một người có tinh thần yêu nước và tấm
lòng vị tha bác ái.
Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận sinh ngày 17/4/1928 tại Phủ Cam, Huế.
Ngài là anh cả trong một gia đình có 8 anh chị em, cha là ông Nguyễn Văn
Ấm, mẹ là bà Ngô Đình Thị Hiệp. Bà Hiệp là em ruột của đức Giám mục Ngô
Đình Thục và Tổng thống Ngô Đình Diệm.
Ngài theo học tại Tiểu chủng viện An Ninh, tỉnh Quảng Trị sau đó theo
học tại Đại chủng viện Kim Long, Huế. Ngày 11/6/1953, Ngài được thụ
phong Linh mục và ngay sau đó được bổ nhiệm làm cha Phó xứ tại họ đạo
Phanxicô.
Năm 1956, đức Giám mục giáo phận Huế cử Ngài đi học giáo luật tại Đại
học Urban ở Roma. Năm 1959, Ngài đậu bằng Tiến sĩ Giáo luật với luận án
"Tổ chức Tuyên úy Quân đội trên thế giới" và trở về dạy tại Tiểu chủng
viện Hoan Thiện của Huế. Một năm sau Ngài được cử làm Giám đốc Tiểu
chủng viện này.
Ngày 13/4/1967, Ngài được bổ nhiệm làm Giám mục chính tòa Giáo phận
Nha Trang. Ngài đã chọn khẩu hiệu trong cuộc đời làm giám mục theo tên
một hiến chế của Cộng đồng Vatican thứ II là Vui mừng và Hy vọng.
Trong thời gian làm Giám mục Nha Trang, Ngài còn được trao các chức
vụ: Chủ tịch Ủy ban Truyền thông Xã hội của Hội đồng Giám mục Việt Nam,
Chủ tịch Ủy ban Phát triển của Hội đồng Giám mục Việt Nam, Cố vấn Ủy ban
Giáo hoàng về giáo dân.
Năm 1970, nhân kỷ niệm 300 năm ngày Giám mục Lambert De La Motte
(phiên âm tên Việt là Lâm Bích) đến giáo phận Nha Trang, Ngài đã sáng
lập Chủng viện Truyền giáo Lâm Bích.
Ngày 23/4/1975, Ngài được Tòa Thánh bổ nhiệm làm Tổng giám mục hiệu tòa Vadesi, Phó tổng giám mục của giáo phận Sài Gòn.
Sau biến cố 30/4/1975, Ngài hoãn ngày về Sài Gòn, cho đến ngày 7
tháng 5 thì ngài mới về thành phố này để nhận nhiệm vụ mới. Nhưng ngày
1/7/1975, nhà cầm quyền CSVN yêu cầu Ngài trở về Nha Trang, không cho
Ngài giữ chức vụ Phó tổng giám mục của giáo phận Sài Gòn và sau đó giam
giữ Ngài 13 năm vì lý do chính trị.
Năm 1989, Ngài được xuất ngoại sang Úc thăm cha mẹ, sau đó sang Roma
gặp đức Giáo hoàng John Paul II. Trở về Việt Nam vào tháng 11-1989, Ngài
phát hiện mình bị viêm tuyến tiền liệt, phải vào Bệnh viện Việt Đức ở
Hà Nội để giải phẫu, nhưng bệnh càng nặng, nên được phép đi Roma để tiếp
tục điều trị. Ngài đến Roma vào tháng 4 năm 1990, sau đó nhà cầm quyền
CSVN tuyên bố không cho Ngài trở lại Việt Nam.
Tại Roma, Ngài được mời làm thành viên Ủy ban Quốc tế về Di trú và Di dân.
Ngày 9/4/1994, Tòa Thánh Vatican bổ nhiệm Ngài làm Phó chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình.
Ngày 11/5/1996, Ngài nhận bằng Tiến sĩ Danh dự tại Đại Chủng Viện
Notre Dame ở New Orleans, tiểu bang Louisiana, Hoa Kỳ. Và ngày
24/6/1998, ngài được bổ nhiệm làm Chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng về Công
lý và Hòa bình, thay thế cho đức Hồng Y Etchegaray về hưu.
Ngày 21/1/2001, đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II công bố tuyển chọn
Ngài vào Hồng Y đoàn, tước hiệu Hồng Y nhà thờ Santa Maria Della Scala.
Vào thời điểm này, dư luận Công giáo trên thế giới đặc biệt chú ý đến
Ngài. Trong số phát hành ngày 21/2/2001, Nhật báo The Los Angeles Times
có bài viết với tựa đề "The Men Who Would Be Pope?" (Người có thể lên
ngôi Giáo hoàng?) đã dự đoán danh sách 14 vị Hồng Y có nhiều khả năng kế
vị đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong đó có tên Ngài.
Ngày 16/9/2002, Ngài qua đời tại Roma vì bệnh ung thư ruột.
Ngày 17/9/2007, Giáo hội Công giáo Roma bắt đầu những thủ tục đầu
tiên cho việc tuyên phong chân phước và hiển thánh cho Ngài. Đây là lần
đầu tiên có một người Việt được đề nghị phong thánh mà không phải là
Thánh tử đạo.
Ngày 22/10/2010, tiến trình phong thánh cho cố Hồng Y Nguyễn Văn
Thuận đã được chính thức khởi sự nhưng bị nhà cầm quyền CSVN phản đối và
cản trở vì tinh thần yêu nước của Ngài khi còn sống.
Vào 9 giờ tối ngày 2/7/2013, nhà cầm quyền CSVN đã ngăn chận nhà phê
bình văn học Nguyễn Hoàng Đức (một nhân chứng), không cho xuất cảnh khi
ông này lên máy bay đi Roma theo lời mời của Tòa thánh Vatican, để dự
"phần cuối của cuộc điều tra địa phương" trong hồ sơ phong thánh cho cố
Hồng Y Nguyễn Văn Thuận.
Đây không phải là lần đầu tiên CSVN và Vatican có những trở
ngại trong việc Tòa thánh phong thánh cho các giáo sĩ người
Việt. Năm 1988, Hà Nội từng phản ứng mạnh mẽ nhằm phản đối
Vatican khi Tòa thánh công bố danh sách 117 Thánh Tử Ðạo Việt Nam,
được Đức Giáo hoàng John Paul II tuyên phong Thánh tại Rome ngày 19/6
năm này.
Ngày 07/08/2013, Hiệp hội Bạn hữu của vị Hồng Y cho biết: "Cuộc điều
tra thực tế, một giai đoạn quan trọng trong tiến trình phong chân phước
cho cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã hoàn tất vào tháng 7
tại Roma".
Mãi đến hôm nay, câu nói bất hủ của đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận nói với những cai ngục vẫn còn âm vang:
"Cho dù các anh giết tôi, tôi vẫn yêu thương các anh. Tại vì Chúa Ki
Tô đã dạy tôi phải yêu thương tất cả mọi người, cả những kẻ thù. Nếu tôi
không làm như vậy, tôi không đáng được gọi là Kitô hữu".
Sự ra đi của Ngài quả là một mất mát lớn cho giới Cộng đồng Công giáo
VN, một tu sĩ mà tài đức được cả Tòa thánh Vatican vị nể. Đức Hồng Y
Nguyễn Văn Thuận xứng đáng được ghi tên trong danh sách những công dân
Việt đã làm vẻ vang cho dân tộc trong thế kỷ 20.
Việt Thái
No comments:
Post a Comment