Thứ Bảy, ngày 19.10.2013
Kính thưa quý thính giả,
Khi thực dân Pháp chiếm Việt Nam.
Sau vụ Hà Thành đầu độc năm 1908 vỡ lở và âm mưu khởi nghĩa năm 1916
thất bại, Pháp và chính quyền Bảo hộ cố đàn áp để dập tắt các phong trào
đối kháng bằng cách bắt giam nhiều người. Nhưng càng ngày, càng có thêm
nhiều người yêu nước tham gia vào cuộc kháng chiến chống ngoại xâm.
Trong số đó có Đội Cấn, đội trưởng lính khố xanh Pháp và anh hùng Lương
Ngọc Quyến đứng ra tổ chức cuộc nổi dậy bằng súng đạn chiếm tỉnh Thái
Nguyên với mục đích giành lại độc lập tự chủ cho nước nhà. Trong tiết
mục "Danh nhân nước Việt" tối nay, chúng tôi xin gửi đến quý thính giả
bài "Đội Cấn và Lương Ngọc Quyến trong cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên" của
Việt Thái qua giọng đọc của Tam Thanh.
Đội Cấn tên thật là Trịnh Văn Đạt, sinh năm 1881, người làng Yên
Nhiên, phủ Vĩnh Tường. Nhà nghèo, năm 1910, ông đăng lính khố xanh thay
cho anh trai tên là Trịnh Văn Cấn, thăng dần lên chức Đội trưởng đội
lính khố xanh trong cơ binh Pháp đóng ở Thái Nguyên, nên được gọi là Đội
Cấn.
Tuy đi lính cho Pháp, nhưng Đội Cấn lại là người chịu ảnh hưởng và
khâm phục tinh thần yêu nước chống Pháp của nghĩa quân Đề Thám. Thời
gian đóng tại Thái Nguyên, ông kết bạn với các đồng ngũ người Việt tại
đây như Đội Trường, Đội Giá, Cai Xuyên, Cai Mãnh,... và thường bàn việc
khởi nghĩa chống chính quyền Pháp ở Thái Nguyên với những người này.
Giữa năm 1917, một thành viên trẻ tuổi của Việt Nam Quang phục Hội là
Lương Ngọc Quyến bị bọn Pháp chuyển đến nhà lao Thái Nguyên với bản án
tù chung thân.
Lương Ngọc Quyến sinh năm 1885, là con trai của cụ Lương Văn Can, một
sáng lập viên kiêm hiệu trưởng trường Đông Kinh Nghĩa Thục. Tháng 10
năm 1905, Lương Ngọc Quyến cùng em ruột là Nhị Khanh hưởng ứng phong
trào Đông Du của cụ Phan Bội Châu nên được gửi sang Nhật du học. Tại đây
ông tốt nghiệp ưu hạng trường Chấn Vũ, một ngôi trường nổi tiếng của
Nhật. Vì hoạt động cách mạng nên bị Nhật trục xuất. Lương Ngọc Quyến
sang Trung Hoa học khóa sĩ quan, sau đó phục vụ trong quân đội Trung Hoa
với cấp bậc thiếu tá. Tháng 3 năm 1912, ông được bầu làm Ủy viên quân
sự Ban chấp hành Việt Nam Quang Phục Hội. Năm 1914, ông bị mật thám Anh
bắt tại Hồng Kông và trao cho Pháp. Ông trải qua nhà lao Hà Nội, Phú
Thọ, trước khi bị chuyển đến nhà lao Thái Nguyên.
Nhờ tiếp xúc với tù nhân Lương Ngọc Quyến, nên Đội Cấn biết quan điểm
và sách lược đấu tranh của Việt Nam Quang phục Hội và đã tình nguyện
gia nhập tổ chức yêu nước này. Đội Cấn và những đồng đội đã được Lương
Ngọc Quyến động viên tinh thần, hướng dẫn cách tổ chức binh biến. Sau
khi họp bàn nhiều lần, tất cả quyết định xử dụng các đội quân dưới tay
để nổi dậy chiếm tỉnh Thái Nguyên và giải thoát cho toàn bộ tù nhân
chính trị.
Tuy nhiên, các sĩ quan Pháp vì đề phòng các cuộc binh biến nên liên
tục chuyển đổi hạ sĩ quan và binh sĩ các đơn vị. Do đó, cuộc khởi nghĩa
bị trì hoãn nhiều lần.
Đến tháng 8 năm 1917, khi được tin sắp có đợt thuyên chuyển lớn, Đội
Cấn quyết định ra tay khởi nghĩa. Đêm 30 rạng 31/8/1917, cuộc khởi nghĩa
Thái Nguyên bùng nổ. Quân khởi nghĩa hạ sát viên giám binh Pháp tên là
Noel, phá nhà lao Thái Nguyên, giải thoát 230 tù nhân. Đội Cấn được cử
làm Tư lệnh, Lương Ngọc Quyến làm Tham mưu trưởng.
Sau đó, nghĩa quân triệu tập dân chúng tại Thái Nguyên, tuyên bố độc
lập, đặt quốc hiệu là Đại Hùng, ra tuyên cáo kêu gọi toàn dân "lợi dụng
cơ hội ngàn năm một thuở để trả thù, rửa nhục và mang lại độc lập tự chủ
cho nước nhà". Số quân gia tăng hơn 600 người và lá cờ màu vàng đề 4
chữ "Nam binh Phục quốc", góc trên bên trái lá cờ có 5 ngôi sao màu đỏ.
Quân của Đội Cấn làm chủ Thái Nguyên được 5 ngày thì đến ngày
4/9/1917, Pháp điều động 2000 quân tấn công vào Thái Nguyên. Do lực
lượng quá chênh lệch, nghĩa quân quyết định rút về vùng núi Tam Đảo,
giáp Vĩnh Yên. Vì bị cùm lâu ngày nên đi đứng bất tiện, tham mưu trưởng
Lương Ngọc Quyến từ chối việc binh sĩ làm cáng để khiêng ông và rút súng
tự sát.
Sau 5 tháng tử chiến, ngày 10/11/1918, quân Pháp tấn công lên căn cứ
tại núi Pháo, nghĩa quân bị tổn thất nặng nề, Đội Cấn bị thương nặng và
tự sát bằng cách bắn vào bụng.
Quân Pháp tiếp tục càn quét quân khởi nghĩa cho đến tháng 3 năm sau,
kể cả xử dụng thủ đoạn bắt giữ thân nhân để buộc các nghĩa sĩ phải ra
hàng. Một số người sau đó bị kết án tử hình và nhiều người khác thì bị
đày ra Côn Đảo.
Cuộc nổi dậy Thái Nguyên, dưới sự lãnh đạo của Đội Cấn và Lương Ngọc
Quyến, tuy không kéo dài được lâu như các cuộc nổi dậy kháng Pháp khác,
nhưng đã gây tiếng vang lớn trong dư luận Pháp. Đặc biệt hơn nữa, nó
chứng tỏ cho thấy không phải người Việt nào đi lính cho Pháp cũng là tay
sai bán nước, hay không có tấm lòng yêu nước. Ngược lại, khi có thời cơ
và điều kiện, họ sẵn sàng đứng lên, chấp nhận hy sinh tính mạng để cứu
nguy Tổ quốc.
Người xưa có câu "Ai đem thắng bại anh hùng luận". Cuộc nổi dậy Thái
Nguyên đã góp thêm hai tên tuổi sáng chói trong danh sách những anh hùng
bất khuất của dân tộc Việt: Trịnh Văn Cấn và Lương Ngọc Quyến.
Việt Thái
No comments:
Post a Comment