Chính sách 3 không của CSVN là : “(1) không tham gia các liên
minh quân sự, không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, (2)không
cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và (3) không dựa vào
nước này để chống lại nước kia.” Nhưng trong thực chất là một sự đầu hàng cs Tàu của cs VN. Mời quý thính giả đài ĐLSN nghe phần Bình Luận của Phạm Chí Dũng với tựa đề: “CSVN với chính sách ‘Ba Không’ và tương lai lộn cổ” sẽ được Nguyên Khải trình bày để kết thúc chương trình phát thanh ĐLSN tối hôm nay.
Có lẽ đáng ngạc nhiên khi ông Mark Esper, người vừa trở thành bộ
trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ, sẽ có chuyến công du Việt Nam, nhiều khả năng
diễn ra Tháng Mười, 2019, với mục đích danh nghĩa là “thảo luận việc gia
tăng hợp tác quốc phòng giữa hai nước.”
Nếu điều này đúng, thì đây là chuyến thăm Việt Nam lần thứ ba chỉ trong vòng hai năm của các bộ trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ.
Tiền trạm cho Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ Mark Esper là ông Randall
Schriver, phụ tá bộ trưởng Quốc Phòng phụ trách an ninh khu vực Ấn Độ
Thái Bình Dương.
Randall Schriver đã có một cuộc gặp với thứ trưởng Quốc Phòng Việt
Nam, Thượng Tướng Nguyễn Chí Vịnh. Tuy nhiên đã không có tin tức đặc
việt nào được đưa lên mặt báo chí nhà nước Việt Nam về nội dung trao đổi
giữa hai giới chức này.
Thậm chí một số dư luận còn nghi ngờ không biết cuộc gặp Randall
Schriver với Nguyễn Chí Vịnh có gì được xem là thực chất hay không.
Ngoài ra, người ta đã không nhận ra bất kỳ một dấu hiệu tiến triển
nào trong khái niệm được gọi là “làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác quốc
phòng giữa Việt Nam và Mỹ.” Tất cả vẫn chỉ dừng lại ở trạng thái “giao
lưu.”
Từ đó đến nay, những đề nghị của Hoa Kỳ được cho là muốn tiếp cận sâu
hơn nữa hệ thống cảng biển Việt Nam, đặc biệt là quân cảng Cam Ranh,
hoặc một vị trí cảng biển là nơi có thể dùng làm căn cứ hậu cần – kỹ
thuật cho hải quân Mỹ, đã bị phía Việt Nam lặng lẽ khước từ.
Nguyễn Phú Trọng, ngoài việc ngồi cả hai ghế tổng bí thư và chủ tịch
nước còn là Bí Thư Quân Ủy Trung Ương và nắm giữ cả vận mệnh quốc phòng
của quốc gia, đã cùng với Bộ Ngoại Giao của ông ta cố thủ nguyên tắc “Ba
Không,” nhất là không liên minh quân sự với nước này để chống nước
khác, và không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự tại Việt Nam.
Ngay cả khi đã bị Trung Quốc gây hấn và đe dọa sát sườn ở khu vực Bãi
Tư Chính trong hai năm liên tiếp 2017 và 2018, Trọng cũng chỉ muốn “dựa
hơi” hàng không mẫu hạm và các tàu chiến Mỹ để “hù” Trung Quốc.
Tức là chỉ mở rộng khái niệm “Việt Nam tôn trọng tự do hàng hải” và
cả “tự do hàng không” để tàu chiến và máy bay Mỹ có thể áp sát các căn
cứ quân sự của Trung Quốc ở Biển Đông, nhưng vẫn không chịu nhả bất kỳ
vị trí quân sự nào trên đất liền của Việt Nam để việc hợp tác phòng thủ
quân sự với Mỹ có được một chút gì đó thực chất.
Cho tới nay khi đã phải chịu sức ép nặng nề và liên tiếp của Trung
Quốc ở Bãi Tư Chính và một số vùng biển Phan Rang, Phan Thiết, Phú Yên…,
Bộ Chính Trị Việt Nam đã trở thành một kẻ cô độc theo cả nghĩa bóng và
nghĩa đen khi không nhận được bất cứ sự ủng hộ nào, thậm chí còn không
có nổi sự chia sẻ nào từ không chỉ các nước trong khối ASEAN, mà còn từ
12 quốc gia “đối tác chiến lược” với Việt Nam, kể cả Nga là nước có lợi
ích trong dự án khai thác mỏ Lan Đỏ.
Chỉ còn lại có Mỹ, đối trọng quân sự duy nhất với Trung Quốc trên
Biển Đông, nhưng chưa bao giờ là “đối tác chiến lược” của Việt Nam.
Nhưng người Mỹ sẽ làm gì cho Việt Nam? Mỹ sẽ chỉ bảo vệ cho
ExxonMobil và mỏ dầu Cá Voi Xanh, hay còn muốn đứng bên Việt Nam ở Bãi
Tư Chính?
Sau ba lần ra tuyên bố ủng hộ Việt Nam ở cấp Bộ Ngoại Giao, phát ngôn
viên Tòa Bạch Ốc đã im bặt. Tương tự, sau khi tiến vào Biển Đông, hàng
không mẫu hạm USS Ronald Reagan của Mỹ đã chỉ làm nhiệm vụ “tuần tiễu”
mà chẳng thèm bén mảng đến gần Bãi Tư Chính – nơi mà giới chóp bu Việt
Nam đang lo sốt vó. Cách nào đó, người Mỹ đang cố tình để mặc cho các
tàu Trung Quốc tung hoành ở đó.
Tin tức chính thức về chuyến công du Việt Nam của Bộ Trưởng Quốc
Phòng Hoa Kỳ Mark Esper lại xảy ra đồng thời với một thông tin không
chính thức về chuyến đi Mỹ của Nguyễn Phú Trọng bị hoãn lại.
Hoặc Trọng không thể đi Mỹ vì gánh nặng sức khỏe đang trở nên quá nan
giải đối với ông ta, đặc biệt là những di chứng không thể xem thường
sau cú bạo bệnh ở xứ Kiên Giang “nhà ba Dũng” vào Tháng Tư, 2019.
Hoặc ngay cả nhân vật nào được cử thay Trọng để đi Washington gặp
Trump cũng không thể chắc chắn là có được Tổng thống Mỹ tiếp hay là
không.
Cách chơi và đàm phán của người Mỹ đã thay đổi, thay đổi nhiều so với
thời một tổng thống Barak Obama dễ đoán, dễ chơi và cũng dễ bị ăn hiếp
bởi giới quan chức Việt Nam chói sáng tính khôn lỏi và các thủ đoạn tiểu
xảo.
Đến lúc này, tại sao lại không nghĩ rằng chuyến công du Việt Nam của
Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ Mark Esper là một phép thử mà Tổng Thống
Trump, với tính cách thật thực dụng của ông ta, đặt ra đối với Hà Nội?
Rằng trước khi có một cuộc gặp chính thức ở cấp nguyên thủ quốc gia ở
Washington và đề cập đến điều gì đó na ná như “quan hệ đối tác chiến
lược,” Hà Nội cần phải chứng tỏ dứt khoát quan điểm về từ bỏ “Ba Không”
và thói đu dây, về tính thực chất phải có chứ không thể mãi mãi chỉ là
phép tô hồng nếu “quan hệ đối tác chiến lược Việt – Mỹ” được chính thức
hình thành, và cách quan hệ cùng cách chơi với Mỹ. Đó có thể là những
điều kiện cứng rắn của Trump.
Có lẽ đã có những hứa hẹn ngon ngọt với Mark Esper, như thường thấy
trước đây của Bộ Quốc Phòng Việt Nam để bộ trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ chấp
nhận đến Hà Nội, để rồi chẳng nhận được cái gì thực chất ngoài những
lời hứa ngon ngọt vẫn tuôn ra trên vành môi thơn thớt của bộ mặt thỗn
thện nung núc mỡ màng.
Tuy nhiên trời chưa thể sáng nếu chưa có nắng. Tất cả vẫn còn ở phía
trước. Rồi đây người ta sẽ biết rõ về Nguyễn Phú Trọng và thể chế chính
trị uốn éo của ông ta có còn ôm giữ thói đầu môi chót lưỡi hay là không.
Phạm Chí Dũng
No comments:
Post a Comment