Cách đây gần 50 năm, đảng CSVN ngoại lai, phi nhân
tính, phi dân tộc, tay sai của quốc tế CS, đã tàn bạo xua quân cưỡng chiếm và
nhuộm đỏ miền Nam VN ấm no tự do dân chủ.
Và thế là từ đó thảm họa 30 Tháng Tư phủ trùm lên người dân của toàn cõi
miền Nam, chế độ độc tài toàn trị công an trị lập tức bức hại tù đày khổ sai những
người bên “thua cuộc”, tạo ra vô số những hoàn cảnh oan khiên nghiệt ngã.
Chuyện kể dưới đây chỉ là một trong vô vàn những
khúc đoạn trường tháng Tư mà người dân Việt đã đang và vẫn còn phải gánh chịu
cho đến khi nào đất Việt sạch bóng bọn CS hèn với giặc ác với dân.
Để tiếp nối chương trình phát thanh tối hôm nay, trong tiết mục DNDL kính mời quí thính giả theo dõi bài viết của Quan Dương với tựa đề Tháng Tư Khúc Đoạn Trường được đăng trên trang Báo Tiếng Dân qua sự trình bày của Khánh Ngọc.
Trang Báo Tiếng dân
01/04/2024
1-4-2024
Hằng năm cứ vào tháng tư, mỗi khi những kẻ thắng trận
tổ chức lễ hội chào mừng rộn rã thì tôi lại nhớ ngày ra khỏi tù, một mình với bộ
đồ vá nhiều mảnh, ngồi trước mộ con nơi góc ruộng rất xa ở làng Đại Chí, xã
Bình An, Bình Khê, Bình Định.
Trong tấm hình là cô nữ sinh đang ngồi trong lớp.
Cô nữ sinh đó là vợ tôi, chụp vào năm 1974 khi còn đi học. Hình kế bên chụp ba
năm sau đó (1977) là vợ tôi đang ôm con đợi tôi về. Đứa bé tên Lục Bình. Mới có
ba năm mà vợ tôi từ một cô nữ sinh xinh đẹp đã trở thành một cô thôn nữ nhìn
già hẳn đi vì mỗi ngày phải ra ruộng và chiều về ôm con để đợi.
Tháng 5 năm 1975, chung số phận của những người
lính đã để đất nước lọt vào tay kẻ địch, tôi bị bắt vào trại lao động khổ sai của
bên thắng trận, thì Lục Bình lúc đó mới chỉ là bào thai năm tháng còn đang nằm
trong bụng mẹ.
Tháng 9 năm 1975, Lục Bình được sinh ra đời trong
lúc tôi mặc áo tù nhân phá rừng làm đường ở trại Đồng Găng thuộc tỉnh Khánh
Hoà.
Tháng 4 năm 1976, vợ tôi ẳm con chưa đầy 7 tháng tuổi
lặn lội đường xa đi thăm tôi ở Đồng Găng. Đó là lần đầu hai cha con tôi được
nhìn thấy nhau. Gọi là nhìn thấy nhau vì đám cán bộ cai tù không cho phép tôi
được ôm con mình. Bọn họ nói đó là tội uỷ mị, tàn dư của “nguỵ quyền” Sài Gòn để
lại.
Tháng 6 năm 1976, tôi được chuyển từ Đồng Găng ra
trại A.30 Tuy Hòa. Mỗi một chiếc GMC là 50 tù binh ngồi chồm hổm chen chúc
nhau. Phía trên là hai khẩu AK47 của công an áp giải, chĩa thẳng với tư thế sẳn
sàng nhả đạn. Khi đi ngang thị trấn Ninh Hòa là nơi tôi được sinh ra và lớn
lên, nhìn qua thành xe tôi thấy lại những con đường mà mới ngày nào tôi còn cắp
sách đi trên đó đến trường. Nhưng con đường gần gũi đến thế mà giờ đây chừng
như xa vời vợi.
Tháng 12 năm 1977, vợ tôi ẳm Lục Bình thăm tôi lần
nữa tại trại A30. Đó là lần duy nhất trong cuộc đời tôi được ôm con trong vòng
tay. Nhìn vợ tôi xơ xác, nhìn Lục Bình ốm tong teo vì thiếu dinh dưỡng, lòng
tôi đau như cắt, mặc dù hình hài tôi cũng chẳng ra gì sau hai năm bị cưỡng bức
lao động khổ sai, bất kể nắng mưa cùng những cơn đói.
Trong trại tù, mỗi đêm trước khi chìm vào giấc ngủ,
tôi thường thầm thì là ráng đợi ba về, nhưng con tôi đã không. Đó là ngày mồng
10 tết 1979. Hai năm sau, năm 1981 tôi mới được thả và ra ngồi trước mộ con
mình. Cảnh chiều làng quê Đại Chí âm u với vài chiếc lá rụng. Tôi ngồi một mình
với chiếc áo tù nhân và tôi khóc.
RA NGỒI TRƯỚC MỘ
Đại Chí chiều nay ba trở lại
Cắm nén nhang này trước mộ con
Cảnh cũ giờ đây sau mòn mỏi
lòng ba đau tựa nhát gươm cùn
chiều lên mờ khói nhạt
hoàng hôn ngậm cỏ sầu
não nùng con dế khóc
chim lạc cánh về đâu
Lá lìa cành run rẩy
Đảo giữa trời co ro
Nghe dường như con gọi
tiếng não nề ba ơi
Ba nhớ làm sao bóng dáng con
Thiếu tình ba thuở lọt lòng son
Hạnh phúc đâu theo người chiến bại
Con chết ba đang bị gông cùm
Ba nhớ làm sao đôi mắt con
Sáng như sao sáng giữa trời đêm
Sáng rọi đường ba hằng mơ ước
Một nhát gươm vung chặt xích xiềng
Ba chẳng hẹn về con vẫn đợi
Bao năm rồi suốt quãng đời thơ
Đâu biết đi là không trở lại
Là xa cách mãi đến nghìn thu
Mẹ nói con thường ra trước sân
Nẻo vắng đường xa dõi mắt trông
Lắng tiếng xe ai ngừng trước ngõ
Có phải ba về với con không
Ngục tối từng đêm ba nguyện cầu
Quì xin thượng đế rất nhiệm mầu
Xiềng xích phá tan ba trở lại
cho đời con trẻ bớt sầu đau
Trở lại thôn xưa chiều nhạt nắng
Đói khổ lan tràn khắp lối đi
Cổng trước cài then nhà sau vắng
Mộ đã xanh màu cỏ biệt ly
Cỏ đã xanh um màu thương nhớ
Bóng hình con trẻ biết tìm đâu
Ba với tình con nay đã lỡ
Đành hẹn tao phùng ở kiếp sau
Con hỡi từ đây đành vĩnh biệt
Thơ làm rướm máu nhói lòng đau
No comments:
Post a Comment