Kính thưa quý thính giả, sau gần 1000 năm Bắc thuộc, một người
văn võ song toàn, là công thần của hai triều nhà Đinh và nhà Tiền Lê,
được xem là tấm gương sáng về sự thanh liêm và chính trực. Ông là bậc
anh hùng quên đi thù nhà để cùng Lê Hoàn chống quân Tống xâm lược, mở
đầu thời kỳ độc lập cho đất nước.
… Qua chuyên mục Danh Nhân Nước Việt tuần này, chúng tôi xin gửi đến quý thính giả bài “Thái Úy Phạm Cự Lạng” của Việt Thái qua giọng đọc của Tam Thanh để kết thúc chương trình phát thanh tối hôm nay.
… Qua chuyên mục Danh Nhân Nước Việt tuần này, chúng tôi xin gửi đến quý thính giả bài “Thái Úy Phạm Cự Lạng” của Việt Thái qua giọng đọc của Tam Thanh để kết thúc chương trình phát thanh tối hôm nay.
Việt Thái
Phạm Cự Lạng sinh ngày 20 tháng 11 năm Giáp Dần (944), người làng Trà
Hương, Khúc Giang (nay thuộc Hải Dương), trong một gia đình có truyền
thống võ nghệ. Ông nội là Phạm Chiêm, giữ chức Đông giáp Tướng quân đời
Ngô Quyền. Cha là Phạm Mạn, Tham chính Đô đốc đời Ngô Nam Tấn vương, mẹ
là bà Trần Thị Hồng. N
gay từ nhỏ Phạm Cự Lạng được xem là thông minh, có
chí lớn, văn võ song toàn. Lớn lên, Phạm Cự Lạng cùng anh cả là Phạm
Hạp đem tiền bạc mua ngựa và chiêu quân.
Khi Đinh Bộ Lĩnh dấy binh dẹp loạn 12 sứ quân, Phạm Cự Lạng cùng Phạm Hạp đem hơn 2000 người và ngựa đến Hoa Lư phò Đinh Bộ Lĩnh và được phong chức Phòng Ngự sứ Tiên phong Tướng quân ra trấn giữ cửa biển Đại Ác.
Năm Mậu Thìn (968), dẹp xong loạn 12 sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế, tức Đinh Tiên Hoàng, đặt Quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư. Phạm Cự Lạng được phong Tâm phúc Tướng quân, chỉ huy Cung nội Thị vệ.
Vua Đinh Tiên Hoàng có con trưởng là Đinh Liễn, nhưng ngài lại lập con út là Hạng Lang làm Thái tử. Vì vậy đầu năm 979, Đinh Liễn tức giận sai người giết Hạng Lang. Theo chính sử, vào tháng 11 năm Kỷ Mão, một viên quan tên Đỗ Thích, mơ thấy sao rơi vào miệng, tưởng là điềm báo làm vua nên đã giết Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn.
Sau khi vua Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn bị sát hại, Vệ vương Đinh Toàn mới 6 tuổi được lập lên ngôi. Các đại thần Đinh Điền, Nguyễn Bặc và anh của Phạm Cự Lạng là Phạm Hạp thấy uy quyền của Phó vương Lê Hoàn quá lớn bèn khởi binh chống Lê Hoàn nhưng cả ba tướng đều bị Lê Hoàn dẹp tan. Phạm Hạp bị Lê Hoàn xử tử. Tuy vậy, Phạm Cự Lạng vẫn được Lê Hoàn tin dùng làm tướng dưới quyền.
Năm sau, nhà Tống nhân lúc nước Đại Cồ Việt rối ren, liền nảy sinh ý đồ đánh chiếm, sai quan trấn thủ Ung châu là Hầu Nhân Bảo cùng các tướng Tôn Toàn Hưng, Vương Soạn, Triệu Phụng Huân, đem quân theo hai đường thủy bộ tiến vào xâm lược.
Tình thế Đại Cồ Việt vô cùng nguy cấp. Tháng 7 năm ấy, Thái hậu Dương Vân Nga phong Phạm Cự Lạng làm Đại tướng tiên phong đem quân đi chống giặc. Trước lúc tiến quân, Phạm Cự Lạng tập hợp quân sĩ ở cửa Đào Lâm, nói rằng:
“Có công thì thưởng, có tội thì phạt vẫn là lẽ dùng binh. Bây giờ quân giặc sắp vào cõi bờ mà chúa thượng hãy còn thơ ấu, chúng ta có chút công trạng thì ai biết… Chẳng bằng nay ta tôn Thập Đạo Tướng quân lên ngôi Thiên tử, rồi sau sẽ xuất quân.”
Trước áp lực của ba quân, Thái hậu Dương Văn Nga trao áo bào cho Lê Hoàn để lên ngôi Hoàng đế. Phạm Cự Lạng được phong làm Thái úy. Cuối mùa xuân năm Tân Tỵ (981), mọi mũi tiến quân của quân Tống đều bị quân Đại Cồ Việt phá tan, tướng nhà Tống là Hầu Nhân Bảo chết trận, quá nửa quân Tống bị tiêu diệt, vua nhà Tống phải ra lệnh lui quân.
Năm Nhâm Ngọ (982), Thái úy Phạm Cự Lạng được cử cầm quân đánh Chiêm Thành để trả đũa việc vua Chiêm vô cớ bắt sứ giả Đại Cồ Việt.
Mùa thu năm Quý Mùi (983), Phạm Cự Lạng được vua giao trọng trách khai sông mới từ Đồng Cổ đến Bà Hòa (tức Thanh Hóa ngày nay). Trên đắp đường lớn, dưới khai thành sông để tiện việc lưu thông. Cũng trong năm này, Phạm Cự Lạng còn chỉ huy đào cảng Đa Cái ở Hoan Châu (tức Nghệ An ngày nay).
Ngày 12 tháng 9 năm Giáp Thân (9/10/984), Phạm Cự Lạng mắc bệnh sốt rét, qua đời tại Đồng Cổ, nơi ông đang trấn nhậm, hưởng dương 41 tuổi. Nhà vua thương tiếc cho người đem linh cửu hồi kinh và an táng tại phía nam Bồ Sơn.
Ghi nhớ công ơn Phạm Cự Lạng, ở Đồng Cổ và Đa Cái hiện còn đền thờ ông. Tại Hà Nội, vua Lý Thái Tông sau này giao cho Bộ Lễ viết sắc phong: “Thần Phạm Cự Lạng làm Hoằng Thánh Đại Vương” thờ tại đền Ngự sử (nay là đền Lương Sử thuộc khu Văn Miếu – Quốc Tử Giám Hà Nội). Tại Hưng Lộc, Nam Định cũng có đền thờ ông. Nhiều triều đại về sau đã phong ông làm Thượng Đẳng Thần để dân chúng thờ phượng.
Ông được sách sử Trung Hoa liệt vào danh sách “Giao Châu thất hùng”, tức 7 anh hùng người Giao Châu gồm: Đinh Bộ Lĩnh, Đinh Liễn, Lê Hoàn, Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp và Phạm Cự Lạng.
* * *
Cũng như nhiều danh tướng lỗi lạc khác trong sử Việt, tướng quân Phạm Cự Lạng đã từ trần trong thời điểm vinh quang nhất của cá nhân ông nói riêng và đất nước nói chung. Việc đánh bại quân Tống của quân dân Đại Việt, dưới sự chỉ huy của vua Lê Đại Hành và tướng Phạm Cự Lạng, đã khiến cho triều đình nhà Tống phải khiếp sợ, từ bỏ giấc mộng bành trướng xuống phía Nam. Nhưng không chỉ làm giặc phương Bắc khiếp sợ, mà ngay cả nước Chiêm Thành cũng phải chấp nhận thuần phục Việt Nam sau khi bị đạo quân Phạm Cự Lạng tấn chiếm nhiều vùng đất.
Có thể nói là Phạm Cự Lạng không chỉ góp tay mở ra triều đại Tiền Lê mà còn đóng góp công sức rất lớn trong việc mở mang bờ cõi nước Việt, và xây dựng nhiều công trình hạ tầng để phát triển đất nước.
Chính vì thế, việc dân gian dựng đền thờ ông ở nhiều nơi suốt cả ngàn năm qua là điều xứng đáng. Dù cho những đền thờ đó có bị hoang phế dưới mấy chục năm cai trị của đảng cộng sản VN thì tên tuổi của ông vẫn trường tồn theo dòng lịch sử, hơn là tập đoàn cộng sản xây tượng Hồ Chí Minh, một người đã sang Pháp để xin học tại trường thuộc địa với mộng làm quan, nhưng các sử gia cộng sản bịa đặt là “đi tìm đường cứu nước”!
Khi Đinh Bộ Lĩnh dấy binh dẹp loạn 12 sứ quân, Phạm Cự Lạng cùng Phạm Hạp đem hơn 2000 người và ngựa đến Hoa Lư phò Đinh Bộ Lĩnh và được phong chức Phòng Ngự sứ Tiên phong Tướng quân ra trấn giữ cửa biển Đại Ác.
Năm Mậu Thìn (968), dẹp xong loạn 12 sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế, tức Đinh Tiên Hoàng, đặt Quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư. Phạm Cự Lạng được phong Tâm phúc Tướng quân, chỉ huy Cung nội Thị vệ.
Vua Đinh Tiên Hoàng có con trưởng là Đinh Liễn, nhưng ngài lại lập con út là Hạng Lang làm Thái tử. Vì vậy đầu năm 979, Đinh Liễn tức giận sai người giết Hạng Lang. Theo chính sử, vào tháng 11 năm Kỷ Mão, một viên quan tên Đỗ Thích, mơ thấy sao rơi vào miệng, tưởng là điềm báo làm vua nên đã giết Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn.
Sau khi vua Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn bị sát hại, Vệ vương Đinh Toàn mới 6 tuổi được lập lên ngôi. Các đại thần Đinh Điền, Nguyễn Bặc và anh của Phạm Cự Lạng là Phạm Hạp thấy uy quyền của Phó vương Lê Hoàn quá lớn bèn khởi binh chống Lê Hoàn nhưng cả ba tướng đều bị Lê Hoàn dẹp tan. Phạm Hạp bị Lê Hoàn xử tử. Tuy vậy, Phạm Cự Lạng vẫn được Lê Hoàn tin dùng làm tướng dưới quyền.
Năm sau, nhà Tống nhân lúc nước Đại Cồ Việt rối ren, liền nảy sinh ý đồ đánh chiếm, sai quan trấn thủ Ung châu là Hầu Nhân Bảo cùng các tướng Tôn Toàn Hưng, Vương Soạn, Triệu Phụng Huân, đem quân theo hai đường thủy bộ tiến vào xâm lược.
Tình thế Đại Cồ Việt vô cùng nguy cấp. Tháng 7 năm ấy, Thái hậu Dương Vân Nga phong Phạm Cự Lạng làm Đại tướng tiên phong đem quân đi chống giặc. Trước lúc tiến quân, Phạm Cự Lạng tập hợp quân sĩ ở cửa Đào Lâm, nói rằng:
“Có công thì thưởng, có tội thì phạt vẫn là lẽ dùng binh. Bây giờ quân giặc sắp vào cõi bờ mà chúa thượng hãy còn thơ ấu, chúng ta có chút công trạng thì ai biết… Chẳng bằng nay ta tôn Thập Đạo Tướng quân lên ngôi Thiên tử, rồi sau sẽ xuất quân.”
Trước áp lực của ba quân, Thái hậu Dương Văn Nga trao áo bào cho Lê Hoàn để lên ngôi Hoàng đế. Phạm Cự Lạng được phong làm Thái úy. Cuối mùa xuân năm Tân Tỵ (981), mọi mũi tiến quân của quân Tống đều bị quân Đại Cồ Việt phá tan, tướng nhà Tống là Hầu Nhân Bảo chết trận, quá nửa quân Tống bị tiêu diệt, vua nhà Tống phải ra lệnh lui quân.
Năm Nhâm Ngọ (982), Thái úy Phạm Cự Lạng được cử cầm quân đánh Chiêm Thành để trả đũa việc vua Chiêm vô cớ bắt sứ giả Đại Cồ Việt.
Mùa thu năm Quý Mùi (983), Phạm Cự Lạng được vua giao trọng trách khai sông mới từ Đồng Cổ đến Bà Hòa (tức Thanh Hóa ngày nay). Trên đắp đường lớn, dưới khai thành sông để tiện việc lưu thông. Cũng trong năm này, Phạm Cự Lạng còn chỉ huy đào cảng Đa Cái ở Hoan Châu (tức Nghệ An ngày nay).
Ngày 12 tháng 9 năm Giáp Thân (9/10/984), Phạm Cự Lạng mắc bệnh sốt rét, qua đời tại Đồng Cổ, nơi ông đang trấn nhậm, hưởng dương 41 tuổi. Nhà vua thương tiếc cho người đem linh cửu hồi kinh và an táng tại phía nam Bồ Sơn.
Ghi nhớ công ơn Phạm Cự Lạng, ở Đồng Cổ và Đa Cái hiện còn đền thờ ông. Tại Hà Nội, vua Lý Thái Tông sau này giao cho Bộ Lễ viết sắc phong: “Thần Phạm Cự Lạng làm Hoằng Thánh Đại Vương” thờ tại đền Ngự sử (nay là đền Lương Sử thuộc khu Văn Miếu – Quốc Tử Giám Hà Nội). Tại Hưng Lộc, Nam Định cũng có đền thờ ông. Nhiều triều đại về sau đã phong ông làm Thượng Đẳng Thần để dân chúng thờ phượng.
Ông được sách sử Trung Hoa liệt vào danh sách “Giao Châu thất hùng”, tức 7 anh hùng người Giao Châu gồm: Đinh Bộ Lĩnh, Đinh Liễn, Lê Hoàn, Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp và Phạm Cự Lạng.
* * *
Cũng như nhiều danh tướng lỗi lạc khác trong sử Việt, tướng quân Phạm Cự Lạng đã từ trần trong thời điểm vinh quang nhất của cá nhân ông nói riêng và đất nước nói chung. Việc đánh bại quân Tống của quân dân Đại Việt, dưới sự chỉ huy của vua Lê Đại Hành và tướng Phạm Cự Lạng, đã khiến cho triều đình nhà Tống phải khiếp sợ, từ bỏ giấc mộng bành trướng xuống phía Nam. Nhưng không chỉ làm giặc phương Bắc khiếp sợ, mà ngay cả nước Chiêm Thành cũng phải chấp nhận thuần phục Việt Nam sau khi bị đạo quân Phạm Cự Lạng tấn chiếm nhiều vùng đất.
Có thể nói là Phạm Cự Lạng không chỉ góp tay mở ra triều đại Tiền Lê mà còn đóng góp công sức rất lớn trong việc mở mang bờ cõi nước Việt, và xây dựng nhiều công trình hạ tầng để phát triển đất nước.
Chính vì thế, việc dân gian dựng đền thờ ông ở nhiều nơi suốt cả ngàn năm qua là điều xứng đáng. Dù cho những đền thờ đó có bị hoang phế dưới mấy chục năm cai trị của đảng cộng sản VN thì tên tuổi của ông vẫn trường tồn theo dòng lịch sử, hơn là tập đoàn cộng sản xây tượng Hồ Chí Minh, một người đã sang Pháp để xin học tại trường thuộc địa với mộng làm quan, nhưng các sử gia cộng sản bịa đặt là “đi tìm đường cứu nước”!
No comments:
Post a Comment