Thursday, November 22, 2018

Tương Lai Tạm Thời Cho Nhân Quyền Việt Nam

Bình Luận

Chế độ công an trị tàn ác của CSVN cần phải triệt tiêu, hầu dân chủ , nhân quyền và nền kinh tế dân tộc được khai thông và phát triển. Mời quý thính giả đài ĐLSN nghe phần Bình Luận của Phạm Chí Dũng với tựa đề: “Tương Lai Tạm Thời Cho Nhân Quyền Việt Nam” sẽ được Hướng Dương trình bày để kết thúc chương trình phát thanh tối hôm nay.

Theo logic phát triển của CPTPP (Hiệp Định Đối Tác Toàn Diện và Tiến Bộ Xuyên Thái Bình Dương) và EVFTA (Hiệp Định Thương Mại Tự Do Việt Nam-Châu Âu), năm 2019 sẽ ra sao với nhân quyền? Liệu có hy vọng nào sáng hơn so với một năm 2017 nhân quyền bị bắt bớ gần ba chục người và một năm 2018 bắt ít hơn trong khi phải thả hai nhà hoạt động nhân quyền gạo cội và tiêu biểu là Nguyễn Văn Đài và Nguyễn Ngọc Như Quỳnh?

Hãy nhìn lại logic của Hiệp Định TPP – tiền thân của CPTPP.
Logic của TPP là cùng thời điểm Nguyễn Phương Uyên được trả tự do vào năm 2013, hàng loạt tổ chức xã hội dân sự đã lần đầu tiên đồng loạt ra đời, đánh dấu lần đầu tiên phong trào xã hội dân sự – nhân quyền chính thức hình thành ở Việt Nam và được cộng đồng quốc tế công nhận. Đà ra đời và phát triển của các tổ chức xã hội dân sự còn tiếp nối mạnh mẽ vào năm 2014 và sang tận đầu năm 2016. Cho tới năm 2018, số lượng tổ chức xã hội dân sự đã tăng gấp nhiều lần so với năm 2013 và gấp gần 3 lần so với năm 2014.
Bốn năm sau đó, khi TPP chuyển thành CPTPP, công đoàn độc lập đã có một bước tiến dài: vào cuối năm 2018, để được tham gia vào CPTPP lần đầu tiên Nguyễn Phú Trọng và chế độ độc trị của ông ta đã phải nhượng bộ chấp nhận điều kiện về cho phép người lao động được tự do thành lập các tổ chức nghiệp đoàn tự do để tự bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình, tức về thực chất sẽ có một hình thái tổ chức nghiệp đoàn độc lập, hay còn gọi là công đoàn độc lập, tồn tại song song với hệ thống Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam từ trung ương xuống các địa phương. Không những thế, công nhân còn được thành lập nghiệp đoàn tự do không chỉ giới hạn ở từng khu vực mà còn trên cả nước, và các nghiệp đoàn độc lập này được kết nối với nhau…
Cũng như TPP, nội dung của EVFTA đề cập đến những công ước quốc tế về lao động mà Việt Nam phải ký, cùng những vấn đề nhân quyền và môi trường.
Khác với TPP, trong nội dung của EVFTA có ràng buộc điều kiện “hội và các tổ chức phi chính phủ,” mà thực chất là các tổ hội đoàn xã hội dân sự độc lập ở Việt Nam, được quyền tham vấn cho EU về chính sách và các chương trình, dự án liên quan đến EVFTA, cũng như có quyền tham dự vào việc triển khai những chương trình và dự án đó. Và EVFTA cũng bao gồm cả quy định sẽ đỉnh chỉ hiệp định này nếu Việt Nam vi phạm trầm trọng nhân quyền.
Và nếu EVFTA được chính thức ký kết và phê chuẩn, triển vọng của công đoàn độc lập sẽ xán lạn hơn bao giờ hết: định chế này được bảo đảm và hỗ trợ bởi không chỉ một mà đến hai cơ chế pháp lý quốc tế mà chính quyền Việt Nam phải tuân thủ: CPTPP và EVFTA.
Nhưng đó chỉ là tương lai tạm thời, cho những hy vọng tạm thời trong thời kỳ cơ chế độc trị buộc phải tạm buông dần quyền lực và tạm thời nhuốm màu sắc nửa dân chủ, nhưng vẫn chủ yếu phô trương thói mị dân và sẵn sàng quay trở lại thói toàn trị bất kỳ lúc nào có cơ hội.
Bài học chuyển tiếp dân chủ nửa vời ở Miến Điện là đắt giá. Thậm chí cả một Aung San Suu Kyi đoạt giải Nobel Hòa Bình mà còn bắt đầu bộc lộ những dấu hiệu thỏa hiệp với thể chế độc tài quân sự thì tương lai dân chủ trọn vẹn của Việt Nam chắc chắn sẽ còn phải chờ đợi nhiều mùa Xuân nữa.
Có xóa được luật “vào trước, bắt sau?”
Dường như đã hình thành một quy luật cho những biến động nối tiếp của hiệp định thương mại, nhân quyền và bắt bớ: “Vào trước, bắt sau.”
Quy luật “vào trước, bắt sau” chỉ bị xóa bỏ trong những điều kiện tương đối lý tưởng: chính thể cầm quyền ở Việt Nam suy kiệt hoàn toàn về khả năng trả nợ nước ngoài, ngân sách đổ vỡ, còn nền kinh tế rơi vào khủng hoảng bởi quốc nạn nợ công quốc gia – nợ xấu ngân hàng cùng cảnh nạn suy thoái trầm kha; nội bộ đảng Cộng Sản Việt Nam phân hóa trầm trọng và tự diễn biến theo cách đa số quan chức trung cao cấp – những người có thân nhân và tài sản ngồn ngộn ở Mỹ, Canada, Anh, Pháp, Úc… – tìm cách ngả sang phương Tây hoặc tìm lối thoát ở phương Tây; áp lực của Mỹ và Liên Minh Châu Âu về cải cách thể chế kinh tế và cả thể chế chính trị đối với Việt Nam là đủ lớn, phong trào dân chủ nhân quyền trong nước dâng lên đủ cao và bắt đầu tích lũy được những tiềm năng chiến lược… Chỉ khi đó, những tù nhân lương tâm thoát khỏi “nhà tù nhỏ” mới không phải sa chân vào một “nhà tù lớn” và mới giảm thiểu nguy cơ bị chính quyền bắt bớ trở lại.
Trong số những điều kiện trên, kịch bản vỡ nợ nước ngoài của ngân sách Việt Nam và kinh tế suy thoái trầm trọng là dễ xảy ra hơn cả, mà thời điểm xảy ra có thể bắt đầu từ năm 2020 hoặc 2021.
Một lần nữa hãy nhìn lại bài học “tự diễn biến” của chế độ quân phiệt ở Miến Điện. Tuy có nhiều nguyên nhân dẫn đến hiện tượng phải tự thay đổi sang dân chủ, trong đó nổi bật vai trò cải cách của Tổng Thống Thein Sein, nhưng việc Câu Lạc Bộ Paris chấp nhận xóa $6 tỷ tiền nợ cho Miến Điện vào cuối năm 2012 – trùng với chuyến thăm lịch sử đất nước này của tổng thống Mỹ khi đó là Barack Obama – cho thấy chế độ quân phiệt ở Miến Điện đã tích lũy một món nợ quá lớn mà đã mất khả năng chi trả và do đó phải nhượng bộ trước đòi hỏi cải cách chính trị của phương Tây.
Nợ nước ngoài của chính thể độc đảng ở Việt Nam (chưa tính nợ nước ngoài của khối doanh nghiệp) hiện nay là khoảng $105 tỷ – gấp hàng chục lần nợ nước ngoài vào năm 2012 của Miến Điện.
Phạm Chí Dũng

No comments:

Post a Comment