Kính thưa quý thính giả,
Một nhà thơ nổi tiếng, thơ của ông dù viết theo thể loại nào (hành, dao, thán, từ),
dù mang nội dung cảm hoài, ngôn chí hay thù tạc, tất cả đều có văn pháp giản dị,
ý tứ thâm sâu, chữ nghĩa chọn lọc, đều mang tính hiện thực cao, chứa đựng tinh
thần yêu nước, thương dân, hết lòng vì bè bạn.
Trong tiết mục “Danh nhân nước Việt” tuần này,
chúng tôi xin gửi đến quý thính giả bài “Tùng
Thiện Vương” của Việt Thái qua giọng đọc của Minh Nguyệt để
chấm dứt chương trình phát thanh tối hôm nay.
Văn như Siêu Quát vô Tiền Hán,
Thi đáo Tùng Tuy thất Thịnh Đường.
Nghĩa là:
Văn như hai ông Siêu, ông Quát thì thời Tiền Hán phải thua.
Thơ hay như Tùng và Tuy thì thời Thịnh Đường còn kém.
Đó là 2 câu thơ mà các
bậc lão nho vào giữa thế kỷ thứ 19 cho là của vua Tự Đức, với hàm ý so
sánh và khen ngợi văn tài của
Phó bảng Nguyễn Văn Siêu và Cử nhân Cao Bá Quát,
cùng thơ của Tùng Thiện Vương và Tuy Lý Vương.
Tùng Thiện Vương tên thật là Nguyễn Phúc
Miên Thẩm, tự là Trọng Uyên, hiệu
là Thương Sơn và Bạch Hào Tử. Ông sinh ngày 11/12/1819 tại cung Thanh Hòa trong Cấm thành
Huế. Ông là
con thứ 10 của vua Minh Mạng và bà Thục Tần Nguyễn Thị Bảo.
Tùng Thiện Vương là người thông minh hiếu học, học rộng hiểu sâu, lời nói điển nhã và nổi tiếng về thơ văn. Từ năm 7 tuổi đã theo học văn thơ, năm 12 tuổi đã làm gần 2000
bài thi phú, có bài dài đến 162 vần thơ.
Là hoàng thân quốc thích nên lúc sinh thời ông không đi
thi như các Nho Sĩ khác, tuy nhiên về tài
năng, nhất là tài làm thơ phú thì khó ai bì kịp nên được gọi là Thi Ông.
Nguyễn Đắc Xuân, một nhà
nghiên cứu về Huế và là người trọng
nghề nông cho rằng: “Thơ Tùng
Thiện Vương mấy ngàn bài đều chan chứa tình
đồng ruộng và nỗi thông cảm sâu sắc với số phận khổ ải của người dân lao động”.
Tuy Lý Vương lại có nhận xét: “Thi văn
của Tùng Thiện Vương như có hoa giữa núi, như mây mỏng trên trời. Vẻ đẹp ở tinh
thần, mỗi câu có một họa ý, mỗi chữ có một nhạc âm”.
Còn nhà
nghiên cứu Ưng Trình thì nói
rằng: “Chưa đầy 30 tuổi, cây bút đã rung động rừng
Nho, chẳng những đã khuất phục được danh sĩ nhà Thanh mà còn truy chiếm được
địa vị tối cao đời thịnh Đường nữa… Văn chương ấy đúng là quốc hóa tinh tường”.
Tùng Thiện vương có
các tác phẩm
nổi tiếng như: Thương Sơn thi tập, Thương Sơn từ tập, Thương Sơn thi thoại,
Thương Sơn ngoại tập, Thương Sơn văn di, Tịnh y ký, Thức Cốc biên, Lão sinh
thường đàm, Lịch đại đế vương thống hệ… Những trước tác của ông đều được
khắc in bằng mộc bản. Hiện nay, tại Phủ thờ
Tùng Thiện Vương còn lưu giữ gần 1000 mộc bản khắc in các tác phẩm của Thi Ông,
được hậu duệ của ông xem là vật gia bảo, giữ gìn cẩn trọng.
Năm 1929, vua Bảo Đại truy phong Nguyễn Phúc Miên Thẩm
là Tùng Thiện Vương, tước vị mà ngày nay được nhiều người gọi. Di
tích phủ Tùng Thiện Vương tọa lạc tại số 91 đường Phan Đình Phùng, phường Vĩnh
Ninh, thành phố Huế. Lăng Tùng Thiện Vương ở gần chùa Từ Hiếu, Huế. Hiện nay có nhiều con đường và trường học
mang tên ông.
*****
Xuất thân hoàng tộc nhà Nguyễn, nhưng từ khi còn trẻ, Tùng Thiện Vương luôn
quan tâm đến đời sống cơ cực của người dân, với hàng chục bài thơ viết về những
thiên tai và thảm họa mà người dân phải gánh chịu như lũ lụt, hạn hán. Thậm chí
là tai họa “Hổ về làng” giết thú cắn người. Chẳng hạn như trong bài thơ "Nam
Định hải dật" nói về thảm họa sóng thần:
Vì đâu nước biển tràn lên,
Để dân ven biển chết chìm trên khô.
Muôn nhà sóng bạc cuốn xô,
Lửa ma tan giữa mịt mù khí âm.
Nhưng không chỉ có lòng thương dân, Tùng Thiện Vương còn đau lòng trước sự
xâm lăng của quân Pháp khi cả triều đình tỏ ra bất lực trong bối cảnh nước mất
nhà tan:
Bọn Hồ thực hiện mưu ma,
Các quan tướng soái thật là phụ ơn…
Hay:
Lòng đau cầm nước mắt,
Muốn nói chẳng thành lời.
Khen Ngụy Giáng hòa nghị,
Bàn như vậy rất sai!
Và ông đã tỏ ra thất vọng khi vua Tự Đức chấp nhận nghị hòa với quân Pháp:
Nhà vua đã muốn hòa cùng giặc,
Còn thuyết làm chi việc phục thù?
Hai câu thơ này đã cho thấy trước khi
có vua Hàm Nghi và Duy Tân, hoàng tộc nhà Nguyễn đã sản sinh ra những người có
tấm lòng, luôn trăn trở trước vận mệnh của đất nước và hạnh phúc của người dân.
Đến thời Hàm Nghi và Duy Tân, 2 vị vua trẻ tuổi đã thể hiện tình yêu quê hương và dân tộc, nên triều đình nhà Nguyễn xứng đáng được hậu thế ca tụng, hơn là Tập
đoàn Cộng Sản tại Ba Đình hiện nay chỉ biết quỳ gối,
khom lưng cúi đầu trước kẻ thù phương Bắc,
thậm chí là không dám nhắc đến 2 chữ Trung Quốc khi đề cập đến các vụ ngư dân
Việt bị Tàu Cộng sát hại ngoài Biển Đông.
Rất tiếc, Tùng Thiện Vương chỉ là một
thi sĩ nên chỉ biết gửi niềm uất hận của mình vào các câu thơ, chứ không được kế
thừa ngai vàng để thực hiện các hoài bão của mình. Nhưng ít ra, thì ông cũng được
lưu danh trong sử Việt, không chỉ vì văn tài mà còn là một người biết đau lòng
trước nỗi cơ cực của người dân và nỗi nhục mất nước.
No comments:
Post a Comment