Kính thưa quý thính giả,
Lịch sử Việt Nam thời
cận đại ghi nhận, một văn sĩ có chân trong Tự Lực Văn Đoàn, chuyên dịch sách và viết truyện ngắn. Ông đã đóng góp nhiều trong việc khởi xướng
và phát triển thể thơ mới bằng cách nới rộng hồn thơ và thay đổi bút pháp theo
nhu cầu đổi mới trong nội dung và hình thức.
Trong tiết mục Danh nhân nước Việt tuần này, chúng tôi xin
gửi đến quý thính giả bài “Nhà văn Thế
Lữ” của Việt Thái qua giọng đọc của Minh
Nguyệt để chấm dứt chương trình phát thanh tối
hôm nay.
Gậm một khối căm
hờn trong cũi sắt,
Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua.
Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ,
Giương mắt bé diễu oai linh rừng thẳm,
Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm,
Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi.
Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi,
Với cặp báo chuồng bên vô tư lự.
Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ,
Thủa tung hoành hống hách những ngày xưa.
Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già,
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi…
Đó là những câu thơ trong bài “Nhớ Rừng” của Thế Lữ viết tặng Nguyễn Tường Tam. “Nhớ Rừng” là một trong những bài thơ hay, tiêu biểu nhất của nhà thơ Thế Lữ và phong trào Thơ mới (1932 - 1941).
Mượn hình ảnh của một con hổ ở Thảo cầm
viên, Thế Lữ đã biến con hổ trong thơ hóa thân thành muôn hình vạn trạng và dùng ngọn bút lãng
mạn để lột tả cái khí phách của vị chúa sơn lâm khi bị giam mình trong
"cũi sắt". Nhớ rừng là khao khát được sống tự do. Bài thơ như một lời nhắn gửi kín
đáo, thiết tha về tình yêu đất nước. Hình tượng con hổ nhớ rừng là sự thể hiện
tuyệt vời về giá trị của sự tự do.
Thế Lữ sinh ngày 6/10/1907 tại ấp Thái Hà, Hà Nội. Cha là
Nguyễn Thuận, người làng Phù Đổng, Tiên Du, Bắc Ninh, nay là Gia Lâm, Hà Nội. Mẹ
là bà Lang Thụ quê Nam Định. Thế Lữ bắt đầu đi học trường Bảo hộ Pháp - Việt, đến năm thứ ba bậc trung học.
Năm 17 tuổi, lập gia đình với cô Nguyễn thị Khương, 19 tuổi,
thuộc họ đạo tỉnh Hà Nam. Thế Lữ là người con có hiếu, trong thời gian làm việc
ở Hà Nội, mỗi tháng đều về Hải Phòng thăm viếng mẹ.
Trong
khoảng năm 1928
đến năm 1932, Thế Lữ học hàm thụ
tại trường Mỹ Thuật Hà Nội, nhưng được một năm thì bỏ học. Ông quen biết nhiều bạn bè, cùng nhau chia sẻ về văn chương, sách vở, cùng tập viết văn quốc ngữ và dịch sách.
Thời gian
sau đó, vì bị bệnh lao phổi, ông về vùng quê ở Hải Phòng tịnh dưỡng, nhưng vẫn chăm chú viết văn
và làm thơ.
Truyện Vàng và Máu, cùng nhiều bài thơ được viết trong thời kỳ
này, ông cũng bắt đầu viết bài đăng báo và xuất bản sách. Vì vậy, Thế Lữ có chân trong Tự Lực Văn Đoàn và các tòa soạn báo Phong hóa, Ngày nay, Tinh hoa.
Ngoài truyện “Vàng và Máu”, ông đã xuất bản: Mấy Vần Thơ, Bên Đường Thiên
Lôi, Gió Trăng Ngàn, Trại Bồ Tùng Linh, Ba Hồi Kinh Dị, Con Quỷ Truyền Kiếp, Lê
Phong Phóng Viên, Gói Thuốc Lá, Đòn Hẹn, Mấy Vần Thơ...
Thế Lữ của thi ca lãng mạn và Thế Lữ, một thi nhân có công trong phong trào thơ
mới tiền chiến, mà trước đây vẫn được
xem là người cải cách và canh tân thơ Việt Nam vào thế kỷ thứ 20. Sự thành công
của ông đáp ứng từ nhu cầu thiết thực của tâm hồn con người trong thời tiền chiến,
và kết thúc bằng sức thuyết phục của tài năng mà ông có.
*
* *
Có
thể nói một cách không sai lầm, nhóm Tự Lực Văn Đoàn đã xây được nền móng vững
chắc cho nền văn học Việt Nam, trong giai đoạn đất nước hoàn toàn chuyển mình
sang chữ quốc ngữ. Dù chỉ có một số cây viết ít ỏi, nhưng Tự Lực Văn Đoàn đã để
lại biết bao nhiêu là tác phẩm văn thơ có giá trị vượt thời gian và không gian.
Và
Thế Lữ là một trong những cây viết xuất sắc đó, được xem là "chủ soái thi
đàn" trong phong trào thơ mới, nhưng ông không đi đến cùng, mà lại chuyển
sang viết kịch nghệ nên không thành công cho lắm. Thế nhưng gần một trăm năm
qua, nhắc đến Thế Lữ là người ta nhớ đến bài thơ "Nhớ Rừng" đầy ngạo
nghễ của ông trong bối cảnh loạn lạc của xã hội VN dưới thời Pháp thuộc.
Sau năm 1954, cả miền Bắc hầu như không ai dám nhắc đến cái
tên Tự Lực Văn Đoàn, chứ nói chi đến nhà văn Thế Lữ, nên sau 70 năm sống dưới sự cai trị và giáo dục nhồi
sọ của tập đoàn cộng sản, rất ít học sinh được biết về nhóm Tự Lực Văn Đoàn nói
chung và Thế Lữ nói riêng. Ngược lại, thì toàn bộ học sinh miền Nam dưới thời
VNCH đều được giảng dạy về thơ văn của ông, (một trong 7 trụ cột của nhóm Tự Lực
Văn Đoàn) bị tập đoàn cộng sản liệt vào đối tượng cần phải tiêu diệt khi cướp
được chính quyền ở miền Bắc.
Và cho dù người cộng sản nỗ lực vùi dập suốt mấy chục năm
qua, cái tên Tự lực Văn Đoàn nói chung và Thế Lữ nói
riêng, vẫn mãi được nhiều người nhắc nhở.
Rất
may mắn là nhà văn Thế Lữ bị bạo bệnh nên không bị cộng sản thủ tiêu như Khái
Hưng. Chính vì thế, vinh danh Thế Lữ cũng là vinh danh nhóm Tự Lực Văn Đoàn, vì
nhóm này đã để lại một di sản văn hóa đồ sộ cho thế hệ hôm nay và mai sau.
No comments:
Post a Comment