Kính thưa quý thính giả,
Sử Việt ghi lại một sứ thần kiên cường bất khuất, chấp
nhận bị hành hình khi đáp lại câu đối đầy ngạo mạn của vua nhà Minh vào năm
1638.
Trong tiết mục “Danh nhân nước Việt” tuần này, chúng tôi
xin gửi đến quý thính giả bài “Thám hoa Giang Văn
Minh ” của Việt Thái qua giọng đọc của Minh Nguyệt
để chấm dứt chương trình phát thanh tối hôm nay.
Giang Văn Minh tự Quốc Hoa, hiệu Văn Chung, sinh năm 1573 tại làng Kẻ Mía, xã Mông Phụ, tổng Cam Giá, huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây. Ông đỗ đầu kỳ thi Hội.
Kỳ thi Đình năm 1628 (thời
vua Lê Thần Tông) không có danh hiệu Trạng nguyên hay
Bảng nhãn, chỉ có Thám hoa và ông đỗ đầu nên triều đình gọi ông
là Thám hoa Giang Văn Minh. Mấy
năm sau, ông giữ các chức vụ:
Binh khoa Đô cấp (1630), Thái bộc Tự khanh (1631).
Năm 1637, ông và Ngự sử Nguyễn
Duy Hiểu được triều đình cử làm Chánh sứ dẫn
đầu 2 đoàn sứ bộ sang Tàu.
Năm 1638, ông đến Yên
Kinh. Trong lúc triều kiến, vua nhà Minh đã
ngạo mạn ra một câu đối cho sứ bộ Đại Việt: “Đồng trụ chí kim đài dĩ lục” nghĩa là
“Cột đồng nay rêu đã xanh” với hàm ý
nhắc lại chuyện tướng Mã Viện dẹp tan cuộc khởi nghĩa của Hai Bà
Trưng và đã đóng một trụ đồng với lời nguyền: "Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt" tức “trụ đồng gẫy
thì nước Giao Chỉ bị diệt vong”.
Trước sự ngạo mạn đó, sứ thần Giang Văn Minh vẫn bình
tĩnh và hiên ngang đối lại bằng câu: "Đằng Giang tự cổ huyết do
hồng", nghĩa là "sông Bạch
Đằng từ ngàn xưa đến nay máu vẫn còn đỏ".
Câu đối này vừa chỉnh, vừa tõ
rõ lòng tự hào dân tộc và khí phách anh hùng, vừa cố ý
nhắc cho vua nhà Minh nhớ chuyện
nước Việt đã 3 lần đánh tan quân Tàu trên
sông Bạch Đằng. (Lần đầu
tiên: đức Ngô Quyền đại phá quân Nam Hán. Lần
thứ hai: nhà
Tiền Lê đánh tan quân Tống. Lần thứ
ba: đức
Hưng Đạo Vương tiêu diệt quân Nguyên - Mông).
Câu đối của sứ thần Giang Văn Minh như một cái tát giáng thẳng
vào mặt vua nhà Minh trước văn võ bá quan và sứ thần các
nước.
Vì thế, vua nhà Minh nổi
điên (quên cả thể diện, bất chấp luật lệ bang giao là cấm giết
sứ thần) ra lệnh hành hình ông bằng
cách đổ nước đường đang sôi vào mắt và miệng, rồi mổ bụng để xem
gan mật của sứ thần Đại Việt to đến độ nào.
Sau khi hành hình xong, vua nhà
Minh bình tĩnh lại và do nể phục tinh thần uy dũng của sứ thần Giang Văn Minh liền cho
người ướp xác ông đưa về nước.
Khi linh cữu về đến kinh thành Thăng Long, vua Lê Thần
Tông và chúa Trịnh Tráng cùng đến lễ bái và truy phong chức Công bộ Tả thị
lang, tước Vinh quận công, ban tặng câu: “Sứ
bất nhục quân mệnh, khả vi thiên cổ anh hùng”, nghĩa là “Sứ thần không làm
nhục vua, xứng đáng là anh hùng thiên cổ”.
Dân chúng thương tiếc lập mộ và nhà thờ ông
ở đồng Dưa, thôn Mông Phụ, xã Đường Lâm. Tại quận
Ba Đình, Hà Nội, có con
đường mang tên Giang Văn Minh.
*****
Hơn 400 năm về trước, Đại Việt là một nước nhỏ
luôn bị nước Tàu dòm ngó, việc giao hảo là một chính sách
ngoại giao hàng đầu của triều đình, nên hàng năm
đều cử sứ thần sang triều cống. Nhưng quan trọng là các sứ thần phải gìn giữ
thể diện và sĩ khí quốc gia. Đây là trọng trách nặng nề, vì thế những người
được chọn, không những giỏi về văn chương, có tài hùng biện mà còn phải
can trường với tinh thần bất khuất.
Người xưa nói: “Gian
nan đi sứ, thập nhân khứ, nhất nhân hoàn”. Nghĩa là mười người đi sứ chỉ có
một người trở về. Đoàn sứ thần hàng trăm người phải đi đường biển, chịu nhiều
sóng gió dễ mất mạng khi bão táp. Đường bộ thì gian truân hơn, phải băng đồi núi,
vượt sông suối đầy “sơn lam chướng khí”.
Thời điểm đi sứ của Thám Hoa Giang Văn Minh
được xem là quá nguy hiểm, quân nhà Mạc sẵn sàng phục kích giết sứ thần đoạt
lấy cống phẩm và vừa phá việc cầu phong của vua Lê. Nhưng ông đã hoàn thành nhiệm
vụ, trung dũng quật cường, hiên ngang thốt
lên câu đối đề cao truyền thống chống ngoại
xâm của dân tộc.
Đọc lại trang sử mấy trăm năm trước và nhìn lại
nước Việt dưới thời cộng sản hiện nay, những ai còn nặng nợ với núi sông
chắc chắn phải ngậm ngùi khi nhìn thấy thái độ thần
phục “thiên triều” của tập đoàn CSVN, đứng đầu là Nguyễn Phú Trọng.
Tập đoàn này, từ trong tiềm thức đã chấp nhận
thân phận nô lệ giặc Tàu, Một tập
đoàn lãnh đạo mà từ trên xuống dưới, đều khom lưng
cúi đầu trước Tàu Cộng mà không cảm thấy xấu hổ với các bậc tiền nhân, thì hiểm
họa mất nước vào tay lũ giặc Tàu là chuyện không thể tránh khỏi.
Thám hoa Giang Văn Minh được phong là vị sứ thần “Bất nhục quân mệnh”, là người hùng kiên
cường bất khuất đối đáp trước mặt vua nhà Minh thì liệu linh
hồn của ông có thể an nghỉ hay không khi thấy con
cháu của mình đang cung kính, lắng nghe những
lời dạy dỗ về “16 chữ vàng” từ Tàu
Cộng phương Bắc? Câu trả lời cũng
là câu kết luận cho vận mệnh của đất nước trước thời “Bắc thuộc mới”.
No comments:
Post a Comment