Trong cuộc kháng chiến đánh đuổi giặc Minh vào thế kỷ 15, có một vị tướng đầu quân dưới trướng Trùng Quang Đế chống giặc Minh xâm lược, nhưng vì lòng người ly tán, quân binh ít ỏi, lương thực thiếu thốn nên cuối cùng bị thảm bại phải tự ải. Ông đã để lại bài thơ “Cảm hoài” nói lên hoài bão thiết tha cứu nước.
Trong
tiết mục “Danh nhân nước Việt” tuần
này, chúng tôi xin
gửi đến quý thính giả bài “Võ tướng Đặng Dung” của Việt Thái qua giọng đọc của
Minh Nguyệt để chấm dứt chương trình phát thanh tối hôm nay.
Thế sự du du nại lão hà,
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca.
Thời lai đồ điếu thành công dị,
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa.
Trí chủ hữu hoài phù địa trục,
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà.
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,
Kỷ độ long tuyền đới nguyệt ma.
Tạm dịch:
Việc lớn chưa xong tuổi đã già,
Đất trời thu gọn tiệc ngân nga.
Gặp thời bần tiện thành công dễ,
Lỡ bước anh hùng dạ xót xa.
Giúp chúa những mong xoay trục đất,
Rửa dòng không lối kéo ngân hà.
Bạc đầu thù nước còn chưa trả,
Mấy độ mài gươm bóng nguyệt tà.
Đó là bài thơ “Cảm hoài” của võ tướng Đặng Dung, thể hiện ý chí sắt đá của một anh hùng bất phùng thời.
Đặng Dung ra đời tại xã Tả Hạ, huyện Thiên Lộc, trấn Nghệ An.
Ông
là con của Quốc công Đặng Tất và là tướng tài của Trần Quí Khoách.
Dưới triều nhà Hồ, Đặng Dung đã giúp cha cai quản vùng Thuận Hóa. Khi giặc Minh tiến sang xâm chiếm nước Việt, nhà Hồ
sụp đổ, Đặng Dung cùng cha tham gia vào cuộc khởi nghĩa của Trần Ngỗi, tức Giản Định Đế.
Năm 1409, sau trận chiến ở Bô Cô, Giản Định Đế nghe lời dèm pha của hoạn quan Nguyễn Quỹ rằng, Đặng Tất chuyên quyền nên đã giết Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân.
Đặng Dung tức giận rời bỏ Giản Định Đế, cùng Nguyễn Cảnh Dị (con của
Nguyễn Cảnh Chân) rước Trần Quý Khoách từ Thanh Hóa về đất Chi La thuộc Hà Tĩnh,
tôn làm vua (tức Trùng Quang Đế) và lập căn cứ địa tại vùng đất Nghệ An.
Tháng 7/1409, Đặng Dung và Nguyễn Cảnh Dị tiếp tục chỉ huy
nghĩa quân tiến ra Bắc chiếm lấy vùng Hạ Hồng,
Chí Linh, đẩy quân Minh vào thế bị động ở nhiều nơi. Vua Minh phải sai tướng
Trương Phụ đem 10 vạn quân sang cứu viện. Đặng Dung chận đánh quân của Trương
Phụ ở cửa Hàm tử, nhưng vì
địch quân quá đông nên thất trận, Ông phải rút vào vùng Nghệ An cố thủ.
Đến giữa năm 1410, Đặng Dung và Nguyễn Cảnh Dị tiến quân
ra đánh Hạ Hồng, Bình Than, phá tan quân của Giang Hạo. Nhưng
vì lực lượng yếu thế phải rút về giữ Thanh Hóa, Nghệ An.
Tháng 4 năm 1413, ông đem quân ra Vân Đồn, Hải Đông chận đốt
đoàn thuyền chở lương thực của quân Minh xong lại rút về Nghệ An.
Tháng 12 năm 1413, nghĩa quân tiến đánh quân Minh ở Ái Tử,
Quảng Trị. Mặc dầu lực lượng chênh lệch, ông vẫn tập kích bộ chỉ huy của quân Minh vào lúc
nửa đêm. Ông
chiếm thuyền chỉ huy bắt hụt tướng Trương Phụ, nhưng gây thiệt hại trầm trọng cho quân Minh về nhân mạng, nhiều chiến thuyền và vũ khí bị thiêu hủy.
Đầu năm 1414, Đặng Dung, Trần Quí Khoách, Nguyễn Cảnh Dị, Nguyễn Súy đều
bị quân Minh mai phục, bắt giữ ở Sa Bồ Cán và áp giải về Yên Kinh. Trên đường di chuyển, Đặng Dung và Trần Quí Khoách
đã nhảy xuống sông tự ải.
Cụ Trần Trọng Kim viết:
“Từ khi thua trận, Trần Quý Khoách thế yếu quá không thể chống với quân giặc được nữa, phải vào ẩn núp trong
rừng núi. Chẳng được bao lâu Trần Quý Khoách, Nguyễn Cảnh Dị, Đặng Dung, Nguyễn Súy đều bị bắt và bị giải về Yên
Kinh... Cha con
ông Đặng Dung đều hết lòng giúp nước phò vua, tuy không thành công, nhưng tấm
lòng trung liệt của nhà họ Đặng cũng đủ làm cho người đời sau kính phục và đã
lập đền thờ Đặng Dung ở huyện Can Lộc,
tỉnh Hà Tĩnh”.
* * *
Không phải ngẫu
nhiên mà đức Nguyễn Trãi viết trong Bình Ngô Đại Cáo hai câu thơ:
"Thế nước có lúc thịnh lúc suy,
Nhưng anh hùng hào kiệt thời nào cũng có".
Võ tướng Đặng
Dung là một trong những anh hùng hào kiệt đó, nhưng ông không được may mắn như
những vị tướng sinh cùng thời với ông là Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo .v.v. đã
đầu quân dưới trướng Bình Định Vương Lê Lợi, đạt được chí nguyện giải cứu sơn
hà xã tắc, dựng lại ngọn cờ tự chủ cho dân tộc. Tuy vậy, các trận đánh của ông và
Nguyễn Cảnh Dị đã khiến cho quân Minh bất an, không thể bình định Đại Việt, tạo
cơ hội cho các lực lượng kháng chiến khác nổi dậy khắp nơi, trong đó có nghĩa
quân Lam Sơn của đức Lê Lợi.
Điều đáng nói
nhất là dù biết rõ mình đang cô thế, ông vẫn một lòng quyết chí theo đuổi công
cuộc đấu tranh cho đất nước thể hiện qua bài thơ "Cảm Hoài" bi thương,
nhưng hào hùng.
Vì thế, cho dù
có số phận bi thảm là cha bị giết và bản thân rơi vào tay giặc phải tự ải,
nhưng tên tuổi của võ tướng Đặng Dung vẫn xứng đáng được xếp vào danh sách các
võ tướng oai hùng của nước Việt.
Trong hoàn cảnh
đen tối của dân tộc hiện nay, ngoài giới trẻ, đất nước đang cần nhiều người
"dù tóc đã bạc" nhưng vẫn "mài kiếm dưới trăng" trong hoài
bão giải trừ chế độ cộng sản để Việt Nam thoát khỏi hiểm họa Bắc Thuộc mới.
No comments:
Post a Comment