Thứ Bảy 28.05.2016
Kính thưa quý thính giả, Lịch sử Việt Nam thời cận đại ghi lại, không những chỉ có Tổng đốc Hoàng Diệu đã tuẫn tiết để giữ tiết tháo trước cơn quốc nạn, mà còn có một vị Tổng đốc từ quan về quê lãnh đạo các văn thân yêu nước chống Pháp. Trong tiết mục "Danh nhân nước Việt" tuần này, chúng tôi xin gửi đến quý thính giả bài "Tổng đốc Đào Doãn Địch" của Việt Thái, qua giọng đọc của Tam Thanh để chấm dứt chương trình phát thanh tối hôm nay.
Đào Doãn Địch tên thật là Đào Tăng Sắt, tự Doãn Địch, hiệu Cao Mô.
Ông sinh năm Quý Tỵ (1833) tại làng Tùng Giản, huyện Tuy Phước, tỉnh
Bình Định. Ông làm quan cho triều Nguyễn, căn cứ vào sắc phong của vua
Hàm Nghi, ký ngày 17 tháng 3 âm lịch năm Ất Dậu (1885), thì trước đó ông
giữ chức "Kiểm Biện ở dinh Long Võ".
Về sau vì thấy ông "văn học khả quan, tài năng khả thủ, đủ mưu kế
chánh trị, thanh liêm, thận trọng, cần mẫn, giữ đúng quan châm, có thành
tích siêng năng" nên vua Hàm Nghi đặc cách thăng ông chức "Phụng Nghị
Đại phu", hàm Hồng lô Thiếu khanh, sung chức "Kiểm biện các Bảo và dinh
Kỳ Võ".
Ngày 5/7/1885, kinh thành Huế thất thủ. Sau đó, vua Hàm Nghi xuất
bôn, truyền hịch Cần Vương kêu gọi toàn dân vùng dậy chống giặc Pháp xâm
lăng, được đông đảo dân chúng Bình Định tham gia.
Hưởng ứng hịch Cần Vương, ông Đào Doãn Địch đang là Tổng đốc Bình
Định liền từ quan, cầm đầu các văn thân chống quân Pháp. Ông chiêu mộ
được khoảng 600 nghĩa quân, lập căn cứ ở thôn Tùng Giản (nay thuộc xã
Phước Hòa, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định). Tin lan nhanh đến các tỉnh
Quảng Ngãi, Phú Yên... khiến hàng ngàn người thuộc mọi tầng lớp tìm đến
tham gia vào đoàn quân khởi nghĩa của ông.
Lúc bấy giờ, tại làng Phú Lạc, quận Bình Khê, có người thanh niên 25
tuổi tên Mai Xuân Thưởng văn võ song toàn, chiêu mộ được nhiều nghĩa
quân dũng cảm cũng mang quân về dưới trướng của ông.
Giữa tháng 7 năm 1885, thủ lãnh Đào Doãn Địch chỉ huy đánh chiếm
thành Bình Định và trừng trị viên quan thân thực dân Pháp là Tổng đốc Lê
Thận.
Từ Quy Nhơn, quân Pháp kéo lên bao vây đàn áp, ông dàn quân kháng cự.
Hai bên giao tranh dữ dội ở Trường Úc và Phong Niên. Trước hỏa lực mạnh
của giặc Pháp, lực lượng nghĩa quân của ông bị đánh tan, buộc phải chạy
về đại bản doanh của Mai Xuân Thưởng, lúc này đang đặt tại Lộc Đổng
(Đồng Hươu) ở thôn Phú Phong thuộc huyện Bình Khê (nay là huyện Tây
Sơn), tỉnh Bình Định.
Tháng 9 năm đó (1885), thủ lãnh Đoàn Doãn Địch lâm bệnh mất, hưởng
dương 52 tuổi. Trước khi mất, ông giao quyền chỉ huy lại cho Mai Xuân
Thưởng, khi ấy là Tán tương Quân vụ, lãnh đạo phong trào kháng chiến tại
Bình Định.
Sau khi làm lễ tế cờ tại Lộc Đổng, Mai Xuân Thưởng cho xuất quân và
giao chiến với đối phương nhiều trận tại Cẩm Vân, Thủ Thiện, Hòn Kho
(Tiên Thuận)... Dưới trướng của thủ lãnh nghĩa quân Mai Xuân Thưởng, có
những người sau này cũng nổi danh trong lịch sử kháng chiến chống Pháp
như Tăng Bạt Hổ, Nguyễn Bá Huân, Hồ Tá Quốc, Võ Đạt.. và hàng ngàn sĩ
phu đến từ các tỉnh Phú Yên, Khánh Hòa và Bình Thuận.
Nhận thấy lực lượng của Mai Xuân Thưởng ngày càng lớn mạnh và gây
nhiều thiệt hại cho mình, thực dân Pháp đem pháo hạm án ngữ cửa biển Quy
Nhơn, đồng thời sai Trần Bá Lộc đưa quân từ tỉnh Khánh Hòa đánh ra,
Nguyễn Thân từ Quảng Ngãi đánh vào.
Nhờ pháo binh yểm trợ, hai cánh quân này bắt tay nhau tiến vào Phú
Phong. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (An Nhơn), Mai Xuân
Thưởng bị thương nặng, phải rút tàn quân vào Linh Ðỗng (núi Phú Phong)
ẩn náu, tính kế kháng chiến lâu dài. Đến tháng 4, Trần Bá Lộc ra lệnh
tàn sát dân chúng và tra tấn mẹ ông ngay tại quê nhà. Vì quá thương mẹ,
Mai Xuân Thưởng ra nạp mạng để cứu mẹ và dân lành. Triều đình Huế ra
lệnh hành quyết ông sau khi không thể chiêu hàng.
* * *
Lịch sử VN gần 5 ngàn năm ghi nhận hàng trăm cuộc khởi nghĩa đẫm máu
để giành lại nền độc lập cho nước nhà, đến độ chính Tổng thống Mỹ Barack
Obama cũng tỏ lòng ngưỡng mộ những người con oai hùng của nước Việt như
Lý Thưòng Kiệt, Hai Bà Trưng... trong bài diễn văn đọc tại Hà Nội vào
ngày 24/5 vừa qua.
Thế nhưng so với một ngàn năm Bắc thuộc, trong 80 năm giặc Pháp đô hộ
VN, hàng hàng lớp lớp anh hùng hào kiệt đã nối tiếp nhau xuất hiện để
giành lại chủ quyền quốc gia và dân tộc ở khắp 3 miền, đặc biệt là tại
miền Trung, vùng đất cằn cỗi nhất nước nhưng lại sản sinh ra nhiều thủ
lãnh nghĩa quân nổi tiếng như Đào Doãn Địch hay Mai Xuân Thưởng. Các
phong trào khởi nghĩa này đã hoạt động rộng khắp suốt bao nhiêu năm, gây
khốn đốn cho thực dân Pháp suốt mấy chục năm, trước khi đảng cộng sản
VN ra đời. Chính vì thế, dù chế độ cộng sản luôn nỗ lực bôi xóa giai
đoạn lịch sử này, nhưng mãi mãi không thể bôi xóa công lao và chiến tích
của những Hoàng Hoa Thám, Trương Công Định, Đào Doãn Địch và Mai Xuân
Thưởng.
Điều đáng buồn là sau 70 năm sống dưới sự cai trị tàn bạo của đảng
CSVN, truyền thống bất khuất của cha ông dường như đã biến mất trong
giòng máu của các thế hệ hiện nay. Mặc dù biết rõ là chế độ cộng sản
đang vô cùng thối nát, nhưng lác đác chỉ có vài nhân sĩ trí thức chấp
nhận dấn thân vào con đường đấu tranh, dù chỉ là bảo vệ môi trường đang
bị hủy diệt.
Không hiểu là khi vỗ tay tán thưởng các lời ca tụng lịch sử VN của vị
tổng thống Mỹ, có bao nhiêu người Việt biết được bài hịch "Nam quốc sơn
hà" của đức Lý Thường Kiệt, một trong những bài giáo khoa đã hun đúc
tính thần bất khuất của các sĩ phu VN như Đào Doãn Địch và Mai Xuân
Thưởng?
Tam Thanh
No comments:
Post a Comment