Thứ Bảy, ngày 22.08.2015
Kính thưa quý thính giả,
Một vị lãnh tụ chống Pháp vào cuối thế kỷ 19 đã có một câu tuyên bố hùng hồn: "Triều đình Huế không nhìn nhận chúng ta, nhưng chúng ta cứ bảo vệ Tổ quốc chúng ta". Ông được người Việt tôn vinh là một anh hùng. Trong tiết mục "Danh nhân nước Việt" tuần này, chúng tôi xin gửi đến quý thính giả bài "Thủ lãnh Trương Công Định" của Việt Thái qua giọng đọc của Tam Thanh để chấm dứt chương trình phát thanh tối hôm nay.
Trong Nam, tên họ nổi như cồn,
Mấy trận Gò Công nức tiếng đồn.
Dấu đạn hỡi rêm tàu bạch quỷ,
Hơi gươm thêm rạng vẻ huỳnh môn.
Ngọn cờ ứng nghĩa trời chưa bẻ,
Quả ấn Bình Tây đất vội chôn.
Nỡ khiến anh hùng rơi giọt luỵ,
Đó là một trong 12 bài thơ của cụ Nguyễn Đình Chiểu vinh danh thủ lãnh nghĩa quân Trương Công Định.
Trương Công Định sinh năm 1820 tại làng Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh,
Quảng Ngãi. Trương Công Định sống ở Quảng Ngãi, mãi đến năm 24 tuổi mới
theo cha là Trương Cầm, người giữ chức Chưởng lý Thủy sư vào Gia Định.
Năm 1850, hưởng ứng chính sách khai hoang của triều đình, Trương Công
Định đứng ra chiêu mộ khoảng 500 dân khai hoang lập ấp, được triều đình
Huế phong chức Quản cơ, nên người đương thời thường gọi ông là Quản
Định.
Năm 1859, khi Pháp đưa quân chiếm thành Gia Định, Trương Công Định
đem nghĩa binh lên đóng ở Thuận Kiều để ngăn chặn. Trương Công Định đã
đánh thắng quân Pháp ở mặt trận Thị Nghè, Cây Mai...
Năm 1860, dưới quyền của Tổng thống Quân vụ Nguyễn Tri Phương, Trương
Công Định giữ đồn Kỳ Hòa, được triều đình phong chức Phó lãnh binh. Sau
khi đồn Kỳ Hoà thất thủ, ông cùng nghĩa binh rút về Gò Công xây dựng
căn cứ kháng chiến chống Pháp. Trương Công Định đã tổ chức nhiều trận
phục kích ở Gò Công, Tân An, Mỹ Tho, Chợ Lớn làm cho quân Pháp bị tổn
thất nặng.
Đầu năm 1861, quân Pháp tấn công thành Gia Định lần thứ hai, Trương
Công Định đem quân phối hợp với quân của tướng Nguyễn Tri Phương phòng
giữ chiến tuyến Chí Hòa. Khi đồn Chí Hòa thất thủ, ông lui về Gò Công,
cùng Lưu Tiến Thiện, Lê Quang Quyền chiêu binh ứng nghĩa, trấn giữ vùng
Gia Định - Định Tường. Tại nơi đây, Trương Công Định tổ chức lại lực
lượng trong các vùng Gò Công, Tân An, Mỹ Tho, Chợ Lớn, Sài Gòn, Đồng
Tháp Mười và kéo dài đến tận biên giới Cao Miên.
Ngày 5/6/1862, triều đình Huế ký kết hòa ước với Pháp. Vua quan nhà
Nguyễn đã chỉ thị cho Đại học sĩ Phan Thanh Giản đến gặp và bắt Trương
Công Định phải giải binh, đồng thời thăng cho Trương Công Định chức Lãnh
binh đi nhậm chức ở nơi khác. Vì quân lịnh, lúc đầu ông định tuân theo,
nhưng dân chúng trong vùng và nghĩa quân giữ ông lại. Họ kéo nhau ra
trước ngựa của ông và nhất quyết tôn ông làm Bình Tây đại nguyên soái.
Tháng 2 năm 1863, Pháp tổng công kích đại bản doanh Trương Công Định ở
Gò Công. Cuộc chiến diễn ra vô cùng ác liệt trong 3 ngày liền. Hai phó
tướng của Trương Công Định là Đặng Kim Chung và Lưu Bảo Đường đều tử
trận.
Nghĩa quân yếu thế phải rút về Phước Lộc, dựa vào khu rừng Sát để tiếp tục chống quân Pháp và đã kéo dài cuộc chiến hơn 2 năm.
Ngày 20/8/1864, tên Việt gian Huỳnh Công Tấn dẫn quân Pháp vây bắt
Trương Công Định ở Tân Phước, ông bị trọng thương. Quyết không để rơi
vào tay giặc, ông đã rút gươm tự sát. Khi ấy ông vừa tròn 44 tuổi.
Hay tin Trương Công Định tuẫn tiết, vua Tự Đức truy tặng phẩm hàm và năm 1871 cho lập đền thờ ông tại Tư Cung, Quảng Ngãi.
Con của Trương Công Định là Trương Quyền rút quân lên vùng Châu Đốc tiếp tục cuộc chiến chống Pháp thêm 6 năm nữa.
Mặc dù cuộc khởi nghĩa của Trương Công Định bị thực dân Pháp dẹp tan
nhưng nghĩa khí của ông vẫn tỏa sáng ngàn thu. Khu lăng mộ và tượng đài
ông hiện toạ lạc trong thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang.
* * *
Thủ lãnh Trương Công Định đã thể hiện câu"Anh hùng tử, khí hùng bất
tử", thà tự sát chứ không để bị giặc bắt. Nhưng điều đáng nói nhất là
ông đã đi vào lịch sử với câu tuyên bố bất hủ:"Triều đình không nhìn
nhận chúng ta, nhưng chúng ta cứ bảo vệ Tổ quốc của chúng ta"....
Sau 70 năm bị nhồi sọ dưới mái trường cộng sản, chắc chắn là nhiều
học sinh VN hiện nay không hề được thầy cô giáo giảng dạy về cuộc kháng
chiến chống Pháp của các đoàn nghĩa quân dưới sự chỉ huy của thủ lãnh
Trương Công Định, Nguyễn Trung Trực và nhiều thủ lãnh khác nữa trên mọi
miền đất nước. Họ cũng không được giảng dạy là trước khi đảng CSVN ra
đời, hàng chục ngàn người dân miền Nam đã hy sinh tính mạng và tài sản
để tham gia các cuộc khởi nghĩa chống quân Pháp xâm lược ngay từ những
năm cuối thế kỷ 19, chứ không phải đợi đến cái gọi là "Nam kỳ khởi nghĩa
vào ngày 19/8/1945" mà đảng cộng sản đã rêu rao là do họ tổ chức, nhưng
thực chất là đã cướp công trạng của những đảng phái ở miền Nam.
Nhưng dù họ đã nỗ lực sửa đổi lịch sử đến đâu chăng nữa, thì vẫn
không thể chối cải được sự thật là nếu không có những cuộc khởi nghĩa
của những anh hùng như Nguyễn Trung Trực, Trương Công Định, Hoàng Hoa
Thám v.v... thì phong trào chống Pháp có lẽ đã bị dập tắt và sẽ không có
những thanh niên hay tổ chức yêu nước, như Việt Nam Đồng Minh Hội, Việt
Nam Quốc Dân Đảng, nối tiếp nhau ra đời để tiếp tục chí hướng giành lại
độc lập cho VN.
Đáng nói hơn nữa là trong tình thế dầu sôi lửa bỏng hiện nay, người
dân Việt càng tỏ ra hoài nghi trước những lời lẽ huyênh hoang của đảng
cộng sản về quá khứ "chống Pháp hay chống Mỹ". Làm sao không hoài nghi
cho được khi chủ quyền đất nước liên tiếp bị Trung Cộng xâm phạm, với
hàng ngàn ngư dân Việt mỗi ngày bị quân Tàu hà hiếp trên Biển Đông nhưng
không thấy bóng dáng của một quân đội tự xưng là "đế quốc nào cũng đánh
thắng, kẻ thù nào cũng vượt qua". Tệ hơn thế nữa là hàng tỷ Mỹ kim bỏ
ra để mua một số tàu ngầm của Nga nhưng chỉ để hoạt động trong... vịnh
Cam Ranh!
Chính vì thế, đất nước Việt đang cần sự xuất hiện của những người
mang tinh thần bất khuất như Trương Công Định để bảo vệ tổ quốc, chứ
không thể trông chờ vào cái triều đình thối nát cộng sản ở Ba Đình đang
đẩy dân tộc vào vòng Bắc thuộc lần thứ ba!
Việt Thái
No comments:
Post a Comment