Thứ Bảy, ngày 08.08.2015
Kính thưa quý thính giả,
Triều đại Tây Sơn – Nguyễn Huệ xuất hiện nhiều danh tướng lẫy lừng, được ghi danh trong sử sách. Trong số đó có một tướng lãnh đầy tài năng và mưu lược, được sự tin cậy của vua Quang Trung và lòng thương mến của quân sĩ. Dưới sự cai quản của ông, tình hình miền Bắc sau thời Vua Lê – Chúa Trịnh đã dần dần ổn định. Ông cũng xem trọng văn học, mở khoa thi để thu dụng kẻ sĩ, kính trọng người quân tử và khoan dung đối với kẻ tiểu nhân. Trong tiết mục "Danh nhân nước Việt" tối hôm nay, chúng tôi xin gửi đến quý thính giả bài "Đại tư mã Ngô Văn Sở" của Việt Thái qua sự trình bày của Tam Thanh để chấm dứt chương trình phát thanh tối hôm nay.
Ngô Văn Sở người làng Bình Thạnh, huyện Tuy Viễn, phủ Quy Nhơn (nay
thuộc phường Nhơn Bình, thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định). Tổ tiên ông
là người ở Trảo Nha, huyện Thiên Lộc (nay là huyện Can Lộc, tỉnh Hà
Tĩnh) di cư vào huyện Tây Sơn. Thuở nhỏ theo học võ với Đô thống Ngô
Mạnh.
Năm 1773, Ngô Văn Sở được cử làm Chinh Nam Đại tướng quân cùng Lê Văn
Lộc, Lê Văn Hưng vào đánh chiếm 3 phủ Phú Yên, Diên Khánh, Bình Thuận.
Nǎm 1784, Nguyễn Ánh cầu viện quân Xiêm, Nguyễn Huệ dùng phục binh
tại Xoài Mút, tiêu diệt 2 vạn quân Xiêm và đánh chìm 300 chiến thuyền.
Nǎm 1786, Nguyễn Huệ tiến quân ra Bắc, thắng nhiều trận liên tiếp ở
Thuận Hóa, Quảng Trị, Quảng Bình. Sau đó, giương cao ngọn cờ "Phù Lê
diệt Trịnh", chiếm Nghệ An, Thanh Hóa, Sơn Nam và đến ngày 21/7/1786,
đại quân của Nguyễn Huệ tiến vào Thǎng Long.
Ngày 31/7/1786, Nguyễn Huệ và các tướng sĩ Tây Sơn cùng các quan vǎn
võ Bắc Hà vào triều chúc mừng vua Lê Hiển Tông và Nguyễn Huệ được sắc
phong làm "Nguyên soái Phù dực chính vũ Uy quốc công", được vua gả công
chúa Ngọc Hân. Sau đó, Nguyễn Huệ được phong làm Bắc Bình Vương và được
lệnh rút quân về Nam, đóng tại Thuận Hóa.
Khi Nguyễn Huệ rút quân, miền Bắc trở nên loạn lạc. Vua Lê Chiêu
Thống nhờ Nguyễn Hữu Chỉnh đánh dẹp tay chân của họ Trịnh, nhưng sau đó
thì Nguyễn Hữu Chỉnh cậy công nên lại chuyên quyền. Từ Huế, Nguyễn Huệ
sai Vũ Vǎn Nhậm - con rể Nguyễn Nhạc - mang quân ra diệt Nguyễn Hữu
Chỉnh.
Thời gian sau, Ngô Văn Sở báo cho Nguyễn Huệ biết âm mưu phản loạn
của Vũ Văn Nhậm nên Nguyễn Huệ bất ngờ kéo quân ra đất Bắc giết Vũ Vǎn
Nhậm, giao trọng trách trấn thủ thành Thǎng Long và cai quản 11 trấn Bắc
Hà cho Ngô Văn Sở.
Khi Tôn Sĩ Nghị kéo 20 vạn đại quân sang xâm lược, Ngô Văn Sở kéo
quân vào đóng giữ vùng Tam Điệp để bảo toàn lực lượng, rồi cắt cử Nguyễn
Văn Tuyết về Phú Xuân cấp báo.
Nhận được tin, Nguyễn Huệ lập tức chọn ngày, lập đàn tế trời đất tại
núi Bân Sơn, lên ngôi lấy danh hiệu là Quang Trung hoàng đế và tuyên bố:
"Chỉ trong vòng 10 ngày sẽ quét sạch quân xâm lược, cùng quân sĩ ǎn Tết
trong thành Thǎng Long vào mùng 7 tháng Giêng". Ngài đích thân chỉ huy
đại quân tiến ra Bắc. Khi đến núi Tam Điệp thì Ngô Văn Sở ra đón và xin
chịu tội "không đánh quân Tàu mà lại lui quân". Vua Quang Trung mỉm cười
nói rằng, khi nghe quân Tây Sơn lui về lập phòng tuyến tại Tam Điệp,
Ngài biết ngay đó là kế của Quân sư Ngô Thời Nhậm và ra lệnh cho Đại tư
mã Ngô Văn Sở phải lập công chuộc tội với nhiệm vụ chỉ huy quân tiên
phong tiến ra đất Bắc.
Đến mùng 5 Tết, vua Quang Trung và đại quân Tay Sơn tiến vào thành
Thăng Long, sau khi đánh trận Ngọc Hồi giết chết Hứa Thế Hanh, phá quân
Tàu ở trận Đống Đa làm cho Sầm Nghi Đống tự tử và Tôn Sĩ Nghị phải vứt
bỏ cả ấn tín trốn chạy về nước. Sau khi đại thắng quân Thanh, vua Quang
Trung ra lệnh Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân ở lại Thăng Long, tiếp tục phụ
trách cai quản và bình định 11 trấn Bắc Hà.
Khi vua Quang Trung mất, vua Quang Toản lên ngôi khi còn nhỏ, quyền
hành bị rơi vào tay người cậu là Thái sư Bùi Đắc Tuyên. Kể từ đó, triều
đình Tây Sơn phát sinh nội loạn. Trong một cuộc đấu tranh nội bộ, Đô đốc
Võ Văn Dũng đã sai quân bắt cha con Bùi Đắc Tuyên hạ ngục. Cho rằng Ngô
Văn Sở là người cùng phe cánh với Bùi Đắc Tuyên nên Võ Văn Dũng đã giả
chiếu chỉ triệu Ngô Văn Sở về Phú Xuân. Sau đó, Võ Văn Dũng khép Ngô Văn
Sở vào tội mưu phản rồi đem đóng cũi dìm xuống sông Hương.
Vua Quang Toản biết Ngô Văn Sở bị oan ức nhưng không cứu được tính mạng của ông.
* * *
Triều đại Tây Sơn, đặc biệt là cuộc đại phá 20 vạn quân Thanh vào Tết
Kỷ Dậu năm 1789 là một dấu ấn lớn trong lịch sử VN. Không chỉ có tên
tuổi vua Quang Trung – Nguyễn Huệ đi vào lịch sử hào hùng của dân tộc mà
một loạt các tướng lãnh xuất sắc cũng được lưu truyền suốt 200 năm qua,
bất chấp nỗ lực bôi xóa triều đại Tây Sơn của vua Gia Long khi lập ra
triều Nguyễn.
Dưới thời Việt Nam Cộng Hòa, bất cứ học sinh nào ở miền Nam cũng được
giảng dạy về triều đại Tây Sơn, và đều biết đến những cái tên như Quang
Trung, Đại tư mã Ngô Văn Sở, Đô đốc Lộc, Đô đốc Tuyết, Trần Quang Diệu
hay Bùi Thị Xuân. Thế nhưng chỉ trong vòng 70 năm dưới sự thống trị của
tập đoàn cộng sản VN, nhiều người đã rớt nước mắt khi thấy và nghe các
học sinh trung học ngây ngô trả lời trên đài truyền hình "Quang Trung và
Nguyễn Huệ là hai anh em", hay "Nguyễn Du là anh em với Nguyễn Huệ".
Cũng may là chưa hỏi về danh tướng Ngô Văn Sở, nếu không thì câu trả lời
có thể khiến nhiều người bụm mặt vì xấu hổ.
Thế nhưng điều xấu hổ nhất là chính ông tổng bí thư CSVN Nguyễn Phú
Trọng cũng chẳng khá gì hơn các học sinh không được học Sử đó, khi vênh
váo tuyên bố "thời đại Hồ Chí Minh là thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử
dân tộc", trong khi cả nước đang băng hoại về đạo đức và ngư dân Việt
thì liên tục bị quân Tàu tấn công, cướp bóc và đánh đập trên Biển Đông!
Việt Thái
No comments:
Post a Comment