Thứ Bảy, ngày 29-11-2014
Kính chào quý vị thính giả, NHỮNG
VẤN ĐỀ CỦA CHÚNG TA tuần này xin được thảo luận tiếp phần 2 về Vấn đề
Tranh Chấp Biên Giới giữa Việt Nam và Kampuchia, nói nôm na là "Tranh
chấp biên giới Việt-Miên". Diễn giả là ông Trương Nhân Tuấn, một nhà
nghiên cứu chuyên về biên giới Việt Nam và là tác giả tác phẩm biên khảo
"Biên Giới Việt Trung 1885-2000". Ông Trương Nhân Tuấn tham dự cuộc
thảo luận này từ Marseille, Pháp Quốc.
H.N: Còn thời kỳ thứ ba, tức thời kỳ từ sau Thế
chiến thứ II cho đến khi ký hiệp định Genève 1954 được ký kết thì vấn đề
tranh chấp lãnh thổ hai bên Việt-Miên ra sao ? Xin cho biết thái độ của
nước Pháp trước những yêu sách về lãnh thổ của vua Sihanouk nhân dịp
quốc hội Pháp truyên bố ủng hộ Bảo Đại thành lập Quốc gia Việt Nam năm
1949 ? Và Hiệp định Genève 1954 có qui định điều gì về biên giới giữa
hai nước hay không ?
T.N.T: Trước khi nói về các diễn tiến liên quan đến
biên giới giữa hai bên Việt-Miên trong thời kỳ này, cũng nên nói lại một
số chi tiết liên quan đến đất đai, lãnh thổ sau khi Nhật đảo chánh Pháp
ngày 9 tháng ba năm 1945.
Sihanouk đơn phương tuyên bố Cambodge độc lập. Tháng 6 năm 1945
Sihanouk đưa kiến nghị lên lãnh đạo Nhật, xin Nhật trả lại Nam Kỳ cho
Cambodge, thay vì trả cho triều đinh Huế. Nên biết, lúc đó Nam Kỳ có qui
chế là thuộc địa của Pháp, tương tự các lãnh thổ hải ngoại của Pháp
hiện nay như Calédonie, Gyuane hay Réunion. Quan chức Nhật chưa quyết
định gì thì thua trận Đại chiến trước Đồng minh.
Pháp vào lại VN, gặp nhiều sự kháng cự của kháng chiến VN, trong khi
chính phủ của ông Hồ tuyên bố thành lập nước VNDCCH ngày 2-9-1945 ở miền
Bắc. Do những khó khăn này, cùng với thế lực kiệt quệ do đất nước bị
tàn phá do Thế chiến II, Chính phủ Pháp quyết định tổ chức các nước Đông
dương để trở thành Khối liên hiệp Pháp. Ông Bảo Đại được Pháp đề nghị
trả lại lãnh thổ mà nhà Nguyễn đã ký giao cho Pháp trước kia. Điều kiện
Bảo Đại là phải trả Nam Kỳ và nước VN là một nước thống nhất ba miền
bắc, trung, nam. Pháp đồng ý nguyên tắc này và điều này được lập lại
trong Hiệp định Genève 1954. Quốc gia VN được thành lập vào năm 1949,
đúng với thể thức quốc tế công pháp. VN cùng với Lào và Combodge, trở
thành những « quốc gia liên kết » trong khối Liên hiệp Pháp.
Phái đoàn của Cambodge được gởi qua Paris điều trần ngày 2 tháng 4
năm 1949, mục đích thuyết phục quốc hội Pháp trả lại Nam Kỳ cho
Cambodge. Lý lẽ của phái đoàn Cambodge là lúc ký hiệp định bảo hộ với
Pháp năm 1863, nội dung kết ước không nói đến số phận của Nam Kỳ, là vì
vương quốc này nhường đất này cho Pháp sử dụng. Bây giờ Pháp không cần
đến lãnh thổ này nữa, hợp lý là phải trả lại cho Cambodge chớ không thể
trả cho triều đình Huế.
Lý lẽ này không thuyết phục được chính giới Pháp vì lẽ, các tỉnh Nam
Kỳ là do triều đình Huế nhượng cho Pháp theo các hiệp ước 1862 và 1874.
Trong khi hiệp định 1863 giữa Pháp và Miên thì không hề có một điều bảo
lưu nào về lãnh thổ.
Quốc hội bác yêu sách này với đa số. Nhưng yêu sách về lãnh thổ của
Cambodge thì được một số dân biểu cách tả của quốc hội Pháp ủng hộ.
Thấy đòi nguyên cả Nam Kỳ không xong, ngày 2-5-1949 Quốc hội Cambodge
cho ra một kiến nghị yêu cầu nhà nước Pháp phân định lại biên giới.
Những người này cho rằng biên giới giữa Nam Kỳ và Miên chưa bao giờ được
phân định. Các cuộc phân định trước hoàn toàn mang tính cách thiên vị,
gây thiệt hại cho Cambodge. Kiến nghị này cũng bị quốc hội Pháp bác bỏ.
Do căm hận Pháp đã không thỏa mãn các yêu sách của mình, Sihanouk có
khuynh hướng nghiêng về Trung Cộng, là một thế lực đang lên, đứng sau
chính phủ Hồ Chí Minh, đối đầu với Pháp trong vấn đề VN. Ông này nghĩ
rằng TQ sẽ dùng chính phủ của ông chống lại Pháp ở mặt trận phía tây. Vì
thế trong hội nghị Genève 1954, Sihanouk công bố trước các đại cường
yêu sách về lãnh thổ của Cambodge. Sihanouk đề nghị 6 giải pháp, hết sức
là cường điệu, có nội dung dẫn lại sơ lược như sau :
Sihanouk đòi, hoặc trả lại cho Cambodge toàn vùng đất phía hữu ngạn
sông Hậu Giang, bao gồm thêm các tỉnh Trà Vinh, đảo Phú Quốc và vùng đất
giới hạn giữa kinh Tân Châu và sông Tiến Giang đồng thời tàu bè
Cambodge có quyền quá cảnh ở Sài Gòn.
Hoặc là trả lại các vùng lãnh thổ trải dài cho tới hữu ngạn sông Tiền
Giang, gồm các tỉnh Hà Tiên, Châu Đốc, Long Xuyên, Cần Thơ, Sóc Trăng,
Trà Vinh, Vĩnh Long, Sa Đéc và đảo Phú Quốc, quyền được quá cảnh ở Sài
Gòn đồng thời dân Khmer phai được bảo vệ.
Hoặc phải « quốc tế hóa Nam Kỳ », kinh Vĩnh Tế và hải cảng Sài Gòn có
qui chế tự do, bãi miễn thuế quan. Còn không là phải đặt Nam Kỳ và đảo
Phú Quốc dưới sự quản trị của LHQ.
Các đòi hỏi phi lý này không được nước nào ủng hộ. Sự bẽ bàng của
Sihanouk càng lên cao trong hội nghị Genève tháng 8 năm 1954 giữa Pháp
và các nước Đông dương. Yêu sách của Sihanouk dĩ nhiên không được ngó
ngàng đến. Tuy vậy, kết cuộc hội nghị nhìn nhận Cambodge được quyền
thông lưu trên sông Cửu Long để ra biển cũng như được quyền sử dụng
thuơng cảng Sài Gòn. Nhưng các điều này bị VN bảo lưu, lý do cần xem xét
lại luật lệ quốc tế để xem rằng Cambodge có chính đáng được hưởng các
quyền này hay không ? Cuối cùng thì các quyền này của Cambodge bị VN bác
bỏ dưới thời ông Diệm.
H.N: Ông có thể nói tiếp về quan hệ giữa Việt Nam và
Kampuchia trong thời kỳ chiến tranh VN, tức từ năm 1954 đến năm 1975 ?
Các đòi hỏi về biên giới và lãnh thổ của Sihanouk có thay đổi theo thời
gian hay không ? Tranh chấp về biên giới hai bên đã xảy ra như thế nào ?
T.N.T: Sau thất bại ở hội nghị Genève 1954, thì
Sihanouk có ý định trả thù. Ông này dung dưỡng mọi thế lực chống lại
chính phủ Bảo Đại, sau này là Ngô Đình Diệm.
Một số thí dụ, các lực lượng tôn giáo chống ông Diệm được Sihanouk
cho phép lập sào huyệt trên đất Miên. Vì vậy để tảo thanh, quân VNCH
buộc phải đi vào đất của Cambodge. Các xung đột này bắt đầu từ năm 1955.
Dĩ nhiên, Sihanouk lợi dụng các việc này vừa tố cáo VN, trong khi trên
thực địa thì cho người dời cột mốc phân giới sang phía VN. Để trả đũa,
ông Diệm tuyên bố hủy bỏ mọi « quyền lịch sử » của Cambodge trên lãnh
thổ VN.
Đến năm 1960 thì lực lượng MTGPMN được thành lập. Tổ chức này cũng
xây dựng sào huyệt trên lãnh thổ Cambodge, dĩ nhiên dưới sự đồng ý ám
thị của Sihanouk. Theo một số tài liệu, phía VNDCCH « nhìn nhận đường
biên giới hiện trạng của Cambodge », trong khi MTGPMN, cũng như nhiều
cán bộ cấp cao của CSVN, thì hứa hẹn, nếu thắng được VNCH thì sẽ trả lại
đảo Phú Quốc cho Cambodge.
Vì các hứa hẹn này các đường mòn gọi là đường mòn HCM được Sihanouk
đồng ý cho thiết lập. Con đường huyết mạch tiếp tế lương thực và vũ khí
cho quân MTGPMN cũng như quân chính qui miền Bắc sau này.
Quan hệ giữa Sihanouk và VNDCCH thân thiết đến mức độ vào tháng 8 năm 1963, Cambodge tuyên bố chấm dứt ngoại giao với VNCH.
Sau khi ông Diệm bị đảo chánh 1-11-1963, quan hệ hai bên VNCH và
Cambodge vẫn không ấm áp trở lại, mà còn tệ hai hơn. Nguyên nhân, người
Mỹ chính thức đổ quân vào VN, các cuộc hành quân, càn quét, dội bom trên
đất Kampuchia nhằm phá hoại đường mòn HCM... các việc này gây ra những
thiệt hại đáng tiếc cho phía thường dân Kampuchia. Tháng 7 năm 1965,
Sihanouk kiện VNCH lên LHQ về việc xâm phạm lãnh thổ. LHQ có điều tra
nhưng chỉ kết luận rằng VNCH có vào lãnh thổ Cambodge sau đó rút về, vì
lý do bên Cambodge có dung chứa các lực lượng đối kháng, chứ VNCH không
có xâm chiếm lãnh thổ của Cambodge.
Không hài lòng kết quả điều tra của LHQ, Sihanouk lên tiếng kêu gọi
quốc tế ủng hộ Cambodge, nhìn nhận « đường biên giới hiện trạng » của
nước này. Một số nước ủng hộ, trong đó có Pháp. Điều này có thể hiểu vì
Pháp vẫn còn cay đắng Mỹ trong việc dành chỗ của Pháp tại Đông Dương,
không giúp Pháp trong trận Điện Biên Phủ. Năm 1966 Pháp ủng hộ Cambodge «
trung lập ». Nhưng việc này không thuyết phục được ai vì tên đất
Kampuchia vẫn còn nguyên các sào huyệt của MTGPMN cũng như các con đường
tiếp tế gọi là đường mòn HCM.
Cuối cùng thì Sihanouk bị tướng Lon Nol lật đổ năm 1970.
Sau khi lên nắm quyền, Lon Nol yêu cầu tất cả các lực lượng của CSVN
rút khỏi Kampuchia. Cũng như bất kỳ một người Cambodge nào khác, Lon Nol
cũng rất bài Việt. Trong lúc cuộc đảo chánh, các cuộc thảm sát thường
dân VN đã diễn ra, thây người thả đầy trên sông Cửu Long. Một số lớn
người Việt phải hồi hương. Việc này càng tạo thêm gánh nặng và sự bất ổn
trong xã hội miền Nam.
Lực lượng Khmer đỏ được thành lập dưới sự yễm trợ và huấn luyện của
CSVN. Trên thực tế, vùng phía bắc lãnh thổ Kampuchia hoàn toàn do quân
đội CSVN kiểm soát. Nhưng trong nội bộ của Khmer đỏ lại có nhánh có tinh
thần bài Việt cực kỳ. Vì thế họ ly khai. Những nhóm này cũng giết chóc
và khủng bố đồng thời trục xuất người Việt, như những lãnh đạo khác của
Kampuchia.
Tóm lại, thời kỳ này đường biên giới, cũng như kiều dân VN sống trên
đất Kampuchia, trở thành con tin bị các phía Kampuchia trao đổi quyền
lợi chính trị. Trong thời chiến, vấn đề biên giới không kiểm soát được,
nhưng dân chúng VN là nạn nhân trực tiếp của các tranh chấp này. Con số
nạn nhân VN bị giết phải nói là rất lớn.
H.N:Từ năm 1975 đến nay thì tình trạng biên giới hai
bên ra sao ? Cuộc chiến 1978 kéo dài đến đầu thập niên 90 có làm thay
đổi hiện trạng đường biên giới không ? Hai bên có phân định lại biên
giới hay không ? Nếu có thì việc hoạch định đã được thể hiện như thế nào
?
T.N.T: Từ năm 1975 cho đến 1990, ta có thể nói rằng
khu vực Đông dương vừa là một chiến trường, vừa là một bàn cờ địa chiến
lược của các thế lực quốc tế, gồm có các nước liên hệ trong khu vực và
các đại cường Trung Cộng, Liên Xô và dĩ nhiên là Mỹ. Vấn đề biên giới,
Cambodge không chỉ có tranh chấp với VN mà còn có tranh chấp với Thái
Lan về chủ quyền ngôi đền Préah Viheart cũng như ranh giới ngoài biển,
từ sau khi lấy lại độc lập năm 1953. Trong thời gian này vấn đề biên
giới giữa các bên không chính thức đặt ra, mặc dầu nó luôn là cái cớ để
chiến tranh bùng nổ. Nhất là đối với hai nước Việt-Miên.
Sau khi quân Pol Pot tiến vào Nam Vang, cũng như quân miền Bắc chiếm
Sài Gòn. Tháng 6 năm 1975, một phái đoàn của Khmer đỏ gởi đến Hà Nội để
nhắc lại những cam kết của CSVN : « nhìn nhận đường biên giới hiện trạng
của Cambodge » trong thập niên 60 về vấn đề lãnh thổ của Kampuchia.
Những người này, theo dự kiến là sẽ ký kết ước với Hà Nội để bảo đảm sự «
toàn vẹn lãnh thổ » của hai nước. Nhưng nhóm Khmer đỏ thân TQ trong
phái đoàn bất đồng ý kiến với nhóm thân Hà Nội. Phe thân Bắc Kinh lên
tiếng đòi VN trả lại cho họ vùng lãnh thổ gọi là « Khmer Krom ». Điều
nên biết, chiến thắng ngày 30-4-1975 của CS miền Bắc đã làm cho lãnh đạo
Bắc Kinh tức tối. Chủ trương của TQ từ xưa nay là chống lại VN thống
nhất, cũng như chống lại việc VN quá thân thiện hay lệ thuộc vào Liên
Xô. Phía bắc, áp lực của Liên Xô đã trầm trọng, quân Liên Xô đóng dài
dài trên biên giới gây áp lực. Biển Hoa Đông thì bị Nhật, Đài Loan án
ngữ. Biển Đông thì hạm đội Liên Xô đã có mặt tại Cam Ranh. Nếu Kampuchia
hòa hoãn hay thân thiện với VN thì TQ sẽ không có cách gì để phá vỡ thế
cô lập. Mặt khác, quyền lợi của Mỹ cũng bị đe dọa, các nước chung quanh
như Thái Lan, Mã Lai v.v... sẽ sụp đổ, theo như thuyết Domino của Mỹ.
Vì vậy Bắc Kinh, cũng như Mỹ, chắc chắn phải tìm cách đẩy hai bên VN và
Kampuchia vào thế đối đầu.
Vì thế, cả hai đại cường, Mỹ và TQ, một tư bản, một cộng sản, do cùng
mục tiêu ngăn chặn Liên Xô bành trướng, lại hợp tác với nhau, ra mặt
ủng hộ Pol Pot chống lại VN. Dĩ nhiên, nguyên nhân bên ngoài là tranh
chấp đất đai, nhưng bên trong là sự tranh giành ảnh hưởng địa chiến lược
trong khu vực của các đại cường. Vì vậy, như đã nói, lãnh thổ trong
quảng thời gian này là cái cớ để chiến tranh bùng nổ.
Để kích thích VN vào vòng chiến, trong lúc phái đoàn Khmer đỏ còn ở
Hà Nội thì quân Khmer đỏ đã đánh chiếm cù lao Poulo Wai trong vịnh Thái
Lan. Dọc biên giới thì quân Khmer đỏ đã sẵn sàng dàn quân ứng chiến. Như
thường lệ, những người dân VN sinh sống ở Kampuchia lại trở thành nạn
nhân. Trên 150.000 người bị ngược đãi, trục xuất về VN. Con số bị giết
không biết là bao nhiêu, nhưng chắc chắn không nhỏ. Tháng 6 năm 1976, VN
gởi sứ giả sang Nam Vang hy vọng làm dịu tình hình, nhưng phía Khmer đỏ
đòi phải phân định lại biên giới, thay đổi đường biên giới theo các bản
đồ của Sở địa dư Đông dương ấn hành năm 1954, trong khi phía VN thì
nhìn nhận đường biên giới hiện trạng là đường biên giới thể hiện trên bộ
bản đồ này. Mặt khác, hai bên cũng không đồng thuận về biên giới trên
biển.
Phía Khmer đỏ gia tăng khiêu khích, từ năm 1975 đến 1978, bọn này đã
tiến sang VN đánh phá và tàn sát dân chúng ở 25 huyện và 96 xã, gây ra
trên 257.000 nạn nhân màn trời chiếu đất. Trong năm 1977, Pol Pot cho
quân lính tiến sang Tây Ninh tàn sát dân chúng sinh sống ở đây, nhưng sự
phản ứng của quân VN, do thiện chiến hơn, đã làm cho quân Khmer thiệt
hại nặng. Và cũng để trả đũa những vụ tàn sát dân lành vô tội sinh sống
các tỉnh dọc biên giới, tháng 12 năm 1977, VN mở một cuộc hành quân thần
tốc vào tỉnh Svay Rieng khiến quân Khmer đỏ thiệt hại nặng nề. Cuối
năm, Pol Pot tuyên bố chấm dứt quan hệ ngoại giao với VN.
Chiến tranh Việt-Miên bùng nổ. Dưới sự quan sát của các học giả quốc
tế, cuộc chiến này là một cuộc chiến « ủy nhiệm ». Pol Pot đánh VN là
đánh cho Trung quốc. Còn VN đánh là đánh cho Liên Xô.
Tháng 12 năm 1978, quân VN tiến vào Nam Vang, đánh đuổi Pol Pot và
thành lập chính phủ thân VN ở đây. Cùng với chính phủ này, VN đã ký kết
các hiệp định « các nguyên tắc giải quyết các vấn đề biên giới ». Trên
đất liền ký năm 1982, trên biển ký năm 1983.
Trả lời phỏng vấn báo chí, Nguyễn Cơ Thạch cho rằng VN tôn trọng
đường biên giới hiện trạng theo bộ bản đồ Đông dương 1/100.000. Nhưng
Sihanouk, năm 1984, tố cáo trước dư luận, qua thủ tướng Thái Lan, rằng
VN đã chiếm vùng « mỏ vịt », tức là tỉnh Svay Rieng.
Về biên giới trên biển, theo nội dung các văn bản tham khảo được thì
hai bên cùng đồng ý "lấy đường Brévié được vạch ra năm 1939 làm đường
phân chia các đảo trong khu vực này", hai bên đồng thuận về « vùng nước
lịch sử » trong khu vực đảo Phú Quốc và "sẽ thương lượng vào thời gian
thích hợp... để hoạch định đường biên giới biển giữa hai nước".
Đảo Wai được VN trả lại cho Kampuchia.
Tháng 12 năm 1985 hai bên ký lại « Hiệp ước hoạch định biên giới ».
Ngày 10-10-2005 ký thêm « Hiệp ước bổ sung » về biên giới. Hai bên bắt
đầu cắm mốc từ năm 2006. Ta thấy tỉnh Svay Riêng, tức vùng Mỏ vịt, vẫn
thuộc lãnh thổ của Kampuchia.Tức là lời tố cáo của Sihanouk là không
đúng.
Điều nên biết, sau khi quân Pol Pot vào Nam Vang thành lập chính
quyền thì Sihanouk được mời về làm quốc trưởng. Nhưng liền sau đó thì bị
bạc đãi, tính mạng bị đe dọa. Bắc Kinh tìm cách can thiệp và đưa ông
này đi Trung Quốc. Ở Bắc Kinh Sihanouk được đối đãi như là một thuợng
khách. Bởi vì lãnh đạo Trung Nam Hải biết được giá trị ở con cờ
Sihanouk. Ông vua này có thể làm bất cứ điều gì để chống lại VN. Cũng vì
lý do này mà đất nước Kampuchia điêu linh, thần dân của ông bị nhà nước
Khmer đỏ tiêu diệt gần 1/3, trong đó có họ hàng thân thích của ông.
Điều trớ trêu là nhà nước này do TQ dựng lên, lúc đó ông là một thành
phần của nhà nước này.
No comments:
Post a Comment