Thứ Bảy, ngày 08.11.2014
Trong cuộc kháng chiến đánh đuổi
giặc Minh vào thế kỷ 15, có một vị tướng tên là Đặng Dung đã đầu quân
dưới trướng Trùng Quang Đế của nhà Hậu Trần để chống giặc Minh xâm lược,
nhưng do lòng người ly tán, quân binh ít ỏi, lương thực thiếu thốn nên
cuối cùng bị thảm bại. Ông đã để lại bài thơ "Cảm hoài" nổi tiếng, nói
lên hoài bão thiết tha cứu nước của mình. Trong tiết mục "Danh nhân nước
Việt", chúng tôi xin gửi đến quý thính giả bài "Danh tướng Đặng Dung"
của Việt Thái qua giọng đọc của Tam Thanh để chấm dứt chương trình tối
nay.
Thế sự du du nại lão hà,
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca.
Thời lai đồ điếu thành công dị,
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa.
Trí chủ hữu hoài phù địa trục,
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà.
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,
Tạm dịch:
Việc lớn chưa xong tuổi đã già,
Đất trời thu gọn tiệc ngân nga.
Gặp thời bần tiện thành công dễ,
Lỡ bước anh hùng dạ xót xa.
Giúp chúa những mong xoay trục đất,
Rửa dòng không lối kéo ngân hà.
Bạc đầu thù nước còn chưa trả,
Mấy độ mài gươm bóng nguyệt tà.
Đó là bài thơ nổi tiếng mang tên "Cảm hoài" của võ tướng Đặng Dung.
Bài thơ này đã thể hiện ý chí sắt đá của một anh hùng bất phùng thời.
Đặng Dung ra đời tại xã Tả Hạ, huyện Thiên Lộc, trấn Nghệ An (nay là
huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh). Ông là con của Quốc công Đặng Tất và là
tướng tài của Trần Quí Khoách. Dưới triều nhà Hồ, Đặng Dung đã giúp cha
cai quản vùng Thuận Hóa. Khi giặc Minh tiến sang xâm chiếm nước Việt,
nhà Hồ sụp đổ, Đặng Dung cùng cha tham gia vào cuộc khởi nghĩa của Trần
Ngỗi (tức Giản Định Đế).
Năm 1409, sau trận chiến ở Bô Cô (thuộc tỉnh Nam Định ngày nay), Giản
Định Đế nghe lời dèm pha của hoạn quan Nguyễn Quỹ, cho rằng Đặng Tất
chuyên quyền nên đã giết Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân.
Đặng Dung tức giận rời bỏ Giản Định Đế, cùng Nguyễn Cảnh Dị (con của
Nguyễn Cảnh Chân) rước Trần Quý Khoách từ Thanh Hóa về đất Chi La thuộc
Hà Tĩnh, tôn làm vua (tức Trùng Quang Đế) và lập căn cứ địa tại vùng đất
Nghệ An.
Tháng 7/1409, Đặng Dung và Nguyễn Cảnh Dị tiếp tục chỉ huy nghĩa quân
tiến ra Bắc chiếm lấy vùng Hạ Hồng, Chí Linh, đẩy quân Minh vào thế bị
động ở nhiều nơi. Vua Minh phải sai tướng Trương Phụ đem 10 vạn quân
sang cứu viện. Đặng Dung chận đánh quân của Trương Phụ ở cửa Hàm tử,
nhưng vì địch quân quá đông nên thua trận, Ông phải rút vào vùng Nghệ An
cố thủ.
Đến giữa năm 1410, Đặng Dung và Nguyễn Cảnh Dị tiến quân ra đánh Hạ
Hồng, Bình Than phá tan quân của Giang Hạo. Nhưng vì lực lượng vẫn còn
yếu thế nên phải rút về giữ vùng đất Thanh Hóa, Nghệ An. Tháng 4 năm
1413, Ông đem quân ra Vân Đồn, Hải Đông chận đốt đoàn thuyền vận lương
của quân Minh rồi lại rút về Nghệ An.
Tháng 12 năm 1413, nghĩa quân tiến đánh quân Minh ở Ái Tử (Quảng
Trị). Mặc dầu lực lượng hai bên chênh lệch, nhưng quân của Ông vẫn anh
dũng chiến đấu và bất ngờ tập kích bộ chỉ huy của quân Minh vào lúc nửa
đêm. Ông lên thuyền chỉ huy của quân Minh nhưng bắt hụt tướng giặc là
Trương Phụ. Trong trận này, nghĩa quân đốt phá nhiều thuyền bè, vũ khí
của quân Minh.
Đầu năm 1414, Đặng Dung, Trần Quí Khoách, Nguyễn Cảnh Dị, Nguyễn Súy
đều bị quân giặc mai phục và bắt giữ ở Sa Bồ Cán. Tháng 4 năm 1414, vua
Minh ra lệnh áp giải 4 tướng lãnh này về Yên Kinh (Trung Hoa). Trên
đường di chuyển, Đặng Dung và Trần Quí Khoách đã nhảy xuống sông tự tử.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên ghi chép:
"Đang khi đôi bên quân Nam và quân Bắc cầm cự nhau thì Đặng Dung bí
mật dùng bộ binh và tượng binh mai phục, vào nửa đêm thì bất ngờ đánh úp
vào doanh trại của Trương Phụ. Đặng Dung nhảy lên thuyền chỉ huy định
bắt sống Trương Phụ nhưng vì không biết mặt Trương Phụ nên Trương Phụ
nhảy xuống thuyền nhỏ chạy thoát. Quân Minh bị tan vỡ đến quá nữa,
thuyền bè, khí giới bị đốt phá gần hết..."
Cụ Trần Trọng Kim cũng viết:
"Từ khi thua trận ấy rồi, Trần Quý Khoách thế yếu quá không thể chống
với quân giặc được nữa, phải vào ẩn núp ở trong rừng núi. Chẳng được
bao lâu Trần Quý Khoách, Nguyễn Cảnh Dị, Đặng Dung, Nguyễn Súy đều bị
bắt và bị giải về Yên Kinh... Cha con ông Đặng Dung đều hết lòng giúp
nước phò vua, tuy không thành công, nhưng tấm lòng trung liệt của nhà họ
Đặng cũng đủ làm cho người đời sau kính phục và đã lập đền thờ Đặng
Dung ở huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh".
* * *
Không phải ngẫu nhiên mà Đức Nguyễn Trãi đã viết trong Bình Ngô Đại Cáo hai câu thơ:
"Thế nước có lúc thịnh lúc suy,
Nhưng anh hùng hào kiệt thời nào cũng có".
Võ tướng Đặng Dung là một trong những anh hùng hào kiệt đó. Nhưng ông
không có được may mắn như những tướng lãnh sinh cùng thời với ông là
Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo đã đầu quân dưới trướng Bình Định Vương Lê
Lợi và đã đạt được chí nguyện giải cứu sơn hà xã tắc, dựng lại ngọn cờ
tự chủ cho dân tộc.
Thế nhưng các trận chiến của Đặng Dung và Nguyễn Cảnh Dị đã khiến cho
quân Minh không thể bình định dễ dàng đất nước Đại Việt, tạo cơ hội cho
các lực lượng kháng chiến khác trỗi dậy ở khắp nơi, trong đó có nghĩa
quân Lam Sơn của Lê Lợi.
Điều đáng nói nhất là, dù biết rõ thế lực đơn bạc của mình, Đặng Dung
vẫn một lòng quyết chí theo đuổi công cuộc đấu tranh, được thể hiện qua
bài thơ "Cảm Hoài" bi thương nhưng hào hùng nói trên.
Chính vì thế, dù có số phận bi thảm là cha bị giết và cá nhân ông thì
rơi vào tay giặc, nhưng Đặng Dung vẫn xứng đáng được xếp vào danh sách
các võ tướng oai hùng của dân tộc Việt. Nhưng đặc biệt nhất là, trong
hoàn cảnh đen tối hiện nay, đất nước đang cần nhiều người "dù tóc đã
bạc" nhưng vẫn "mài kiếm dưới trăng" trong hoài bão giải cứu dân tộc
trước hiểm họa làm nô lệ cho bọn Đại Hán
Việt Thái
No comments:
Post a Comment