Thứ Bảy, ngày 22.06.2013
Kính thưa quý thính giả,
Trong tiết mục "Danh nhân nước
Việt" tối hôm nay, chúng tôi xin gửi đến quý thính giả bài "Đức Nguyễn
Trãi" của Việt Thái qua giọng đọc của Tam Thanh để tưởng nhớ đến công
đức của ngài trong cuộc chiến chống giặc ngoại xâm, dựng lại ngọn cờ tự
chủ cho dân tộc.
Nhắc đến Nguyễn Trãi là nhắc đến một quân sư lỗi lạc, đã cống hiến
nhiều mưu lược giúp cho đức Lê Lợi đánh bại được giặc Minh, khôi phục
lại nền độc lập và tự chủ cho nước nhà.
Nguyễn Trãi sinh năm 1380, hiệu là Ức Trai, quê ở làng Chi Ngại,
huyện Phượng Sơn, tỉnh Hải Dương. Cha là Tiến sĩ Nguyễn Phi Khanh và mẹ
là Trần Thị Thái, cháu ngoại của thân vương Trần Nguyên Đán. Năm hai
mươi tuổi, Nguyễn Trãi cũng đỗ tiến sĩ và hai cha con cùng làm quan thời
nhà Hồ.
Năm 1407, giặc Minh xâm chiếm nước Việt, Nguyễn Phi Khanh bị bắt đưa
sang Tàu. Nghe lời cha khuyên tại ải Nam Quan, ông trở về và mấy năm sau
thì tìm đến gia nhập vào đoàn quân khởi nghĩa của đức Lê Lợi. Khi đầu
quân, Nguyễn Trãi dâng bản "Bình Ngô Sách" do ông soạn thảo, nội dung
đưa ra 3 kế sách đánh đuổi giặc Minh mà chủ yếu là chiến lược "Công Tâm"
để thu phục lòng người. Sau khi xem, Lê Lợi liền phong cho Nguyễn Trãi
làm Tuyên phong Đại phu Thừa chỉ Hàn Lâm viện, lo việc quân cơ và viết
thư thảo hịch.
Khi quân Lam Sơn rút lên núi Chí Linh lần thứ ba, lương thực thiếu
thốn, quân sĩ mỏi mệt. Về phía quân Minh cũng vì mệt mỏi nên có ý muốn
giảng hòa. Tướng Lê Sát, Lê Thụ, Đinh Bồ, Phạm Vấn kiên quyết muốn đánh
nhưng Đinh Liệt và Nguyễn Trãi chủ trương hòa hoãn để củng cố và phát
triển lực lượng. Sau khi nghe Nguyễn Trãi phân tích tình hình, Bình Định
Vương chấp thuận hòa hoãn.
Thời gian này, Nguyễn Trãi sai binh sĩ dùng mật ong viết lên lá cây
tám chữ "Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần", khiến loài kiến khi ăn
mật ong khoét thành chữ trên mặt lá. Lá khô rụng theo dòng nước trôi đi
khắp nơi như điềm trời báo trước, nên mọi người đều tin Lê Lợi sẽ thắng
quân Minh.
Năm 1424, tổng chỉ huy quân Minh là Trần Trí biết rằng không thể
chiêu dụ quân Lam Sơn đầu hàng, nên bắt giam sứ giả và tuyên chiến với
Lê Lợi.
Tháng 8 năm 1425, Lê Lợi tấn công vào Tân Bình, Thuận Hóa, chiếm các
vùng đất từ dãy Tam Điệp vào đến đèo Hải Vân. Quân Minh rút về cố thủ
trong 5 thành: Tây Đô, Diễn Châu, Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hóa, chờ quân
cứu viện.
Tháng 9 năm 1426, Lê Lợi tấn công ra Bắc, chiến thắng quân Minh ở Tốt Động - Chúc Động, sau đó tiến ra Đông Quan.
Đầu năm 1427, Lê Lợi phong cho Nguyễn Trãi làm Triều liệt Đại phu
Nhập nội Hành khiển Lại bộ Thượng thư, kiêm chức Hành khu Mật viện sự.
Nguyễn Trãi đã viết hàng chục bức thư gửi đi chiêu hàng và các tướng giữ
thành Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hóa đều chịu đầu hàng. Can đảm hơn nữa,
đích thân Nguyễn Trãi vào thành Tam Giang chiêu hàng được chỉ huy sứ Lưu
Thanh.
Đến cuối năm 1427, nhà Minh sai Liễu Thăng đem 10 vạn quân từ Quảng
Tây, Mộc Thạnh đem 5 vạn quân từ Vân Nam, tiến sang cứu Vương Thông.
Nhưng trong trận Chi Lăng - Xương Giang, hai đạo viện binh này đã bị
quân Lam Sơn phục kích tiêu diệt và sau đó quân Minh xin nghị hòa.
Một số tướng lãnh khuyên Lê Lợi nên tấn công thành Đông Quan, giết
hết quân Minh trả thù cho dân Việt. Nhưng Nguyễn Trãi khuyên nên đình
chiến và cho phép giặc Minh rút quân về nước.
Ngày 29 tháng 4 năm 1428, Lê Lợi lên ngôi, xưng là Lê Thái Tổ, khôi
phục quốc hiệu Đại Việt, đóng đô ở Thăng Long và đổi tên Thăng Long
thành Đông Kinh, giao cho Nguyễn Trãi viết "Bình Ngô đại cáo" để bố cáo
với cả nước về chiến thắng giặc Minh. Đức Nguyễn Trãi được ban tước Hầu,
khắc tên trên bảng Khai quốc Công thần.
Đầu năm 1438, sau thời gian làm quan, đức Nguyễn Trãi về hưu trí ở
Côn Sơn. Khi vua Lê Thái Tông băng hà trong chuyến di tuần tại Côn Sơn
vào tháng 9 năm 1942, cả gia đình Nguyễn Trãi bị khép tội "đầu độc Quân
Vương" và bị tru di tam tộc.
Mãi đến năm 1464, vua Lê Thánh Tông mới xuống chiếu giải oan cho Ngài.
Hiện đền thờ đức Nguyễn Trãi ở Nhị Khê, Hà Nội còn lưu giữ bức chân
dung vẽ ngài trên lụa và nhiều bức hoành phi nêu cao công lao và đức độ
của Ngài.
Tháng 1 năm 1964, đền thờ này được xếp vào Di tích Lịch sử Văn hóa và
năm 1980, UNESCO công nhận Nguyễn Trãi là một danh nhân thế giới. Tên
của Ngài được đặt cho nhiều con đường lớn tại nhiều thành phố ở Việt
Nam.
Lịch sử nước Việt, không những chỉ ghi nhận những đóng góp về quân sự
mà còn vinh danh những tác phẩm văn chương của Ngài, như những bài văn
thơ trong "Ức Trai thi tập", "Quốc Âm thi tập", "Ức Trai thi phú", "Băng
Hồ di sự lục" và đặc biệt là bài "Bình Ngô đại cáo". Bài này được xem
là "Bản tuyên ngôn độc lập thứ 2" của nước Việt, trong đó có đoạn mô tả
sự đau khổ tột cùng của dân Việt dưới gót giầy xâm lược của giặc Minh
như:
"Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ".
Hoặc nỗi gian khổ tột độ và cô đơn trong cuộc chiến kháng Minh, với hai câu thơ đầy ngậm ngùi:
"Khi Linh sơn, lương hết mấy tuần,
Lúc Khôi huyện, quân không một đội!".
Thế nhưng với chủ trương "Việc nhân nghĩa cốt để yên dân", nên "Quân
điếu phạt chỉ vì khử bạo", cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã biến thành một
cuộc chiến giữa thiện và ác, "Lấy chí nhân thay cường bạo" "Đem đại
nghĩa thắng hung tàn" nên đã khoan dung cho giặc Minh rút về Tàu.
Nhưng điều đáng nói hơn nữa, là nếu đổi hai chữ "quân Minh" hay "giặc
Ngô' trong bài "Bình Ngô đại cáo" bằng cụm từ "chế độ cộng sản", thì
áng văn này đã vượt quá thời gian và không gian của hơn 500 năm về
trước.
Lý do là xã hội Việt Nam hôm nay, cũng không khác gì thời bị giặc
Minh chiếm đóng. Nếu có khác thì chỉ khác là những kẻ cai trị hôm nay là
người Việt chứ không phải lũ giặc Minh.
Nhưng cả hai thời đại đều có một điểm chung và cũng là một điều may
mắn cho dân tộc. Đó là dân tộc Việt, dù trong giai đoạn đen tối nhưng
"hào kiệt thời nào cũng có", chứ không phải là "nhân tài như lá mùa thu"
hay "tuấn kiệt như sao buổi sớm".
Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã sinh ra nhiều văn thần võ tướng được ghi
vào lịch sử và hiện nay, cuộc đấu tranh chống lại chế độ cộng sản độc
tài cũng đã và đang xuất hiện nhiều bậc anh hùng và anh thư của nước
Việt.
Chúng ta có thể tin rằng, khi cuộc đấu tranh cho tự do và dân chủ tại
Việt Nam thành công, ắt sẽ có một "áng văn tuyệt tác" không kém gì bài
"Bình Ngô đại cáo" của đức Nguyễn Trãi./.
Việt Thái
No comments:
Post a Comment