Thứ Bảy, ngày 22.06.2013
Kính thưa quý thính giả, NHỮNG VẤN
ĐỀ CỦA CHÚNG TA nêu lên những vấn nạn mà đất nước đang đối đầu, đồng
thời cũng gợi ý các phương thức, đường hướng để giải quyết các vấn nạn
này. Diễn giả tuần này là Gs. Nguyễn Thanh Trang với (phần 2) “Nền Giáo
Dục Hậu Cộng Sản” qua sự điều hợp của Hải Nguyên.
Thứ Bảy tuần trước, chúng tôi đã thảo luận với GS Nguyễn Thanh Trang,
Chủ Tịch Ủy Ban Nghiên Cứu Sách ược Hưng Quốc về đề tài Nền Giáo Dục VN
hậu Cộng Sản. Hôm nay chúng tôi sẽ tiếp tục thảo luận đề tài nầy.
HN: Kính chào GS Nguyễn Thanh Trang. Nhiều người cho rằng
thời điểm nầy tương đối còn quá sớm để lo lắng về nền giáo dục hậu Cộng
Sản, vì hiện nay chế độ CSVN còn rất mạnh và chưa biết đến bao giờ mới
bị sụp đổ.
NTT: Không ai có thể tiên đoán khi nào chế độ Cộng sản sẽ bị sụp đổ,
nhưng mọi người đều tin chắc là chế độ ấy sớm muộn gì cũng bị giải thể,
vì sự bất mãn và chống đối của quần chúng ngày càng lan rộng và gia
tăng. Chúng ta phải nghiên cứu và chuẩn bị các kế hoạch hậu Cộng Sản,
không thể thụ động, đợi nước đến chân mới nhảy.
HN: Là một trong những người đã từng sinh sống và làm việc
tại Việt Nam, Pháp và Hoa Kỳ cũng như đã có dịp du lịch và học hỏi kinh
nghiệm của nhiều nước trên thế giới, có lẽ giáo sư cũng thấy rằng nền
giáo dục của mỗi nước đều có các nét đặc thù. Như vậy, nền giáo dục VN
hậu Cộng Sản, theo giáo sư, chúng ta nên chú trọng đến các lãnh vực nào
cho thích hợp với hoàn cảnh của đất nước và yêu cầu của thời đại?
NTT: Nước ta có bờ biển chạy dài từ Bắc vào Nam và tỉnh nào cũng có
nhiều sông ngòi, hói lạch. Việt Nam cũng có nhiều rừng núi và là một xứ
nông nghiệp với hơn 70% dân chúng sống ở nông thôn. Ngoài ra, chúng ta
cũng không thể quên truyền thống của dân ta như cần cù, siêng năng và
hiếu học, và nhược điểm lớn nhất của các nền giáo dục VN xưa nay là quá
nặng tính cách từ chương và nhồi sọ. Vì thế, dù người dân thông minh
không thua kém ai, nhưng Việt Nam không đào tạo được những nhân tài kiệt
xuất trong các lãnh vực sáng tạo và phát minh khoa học.
Không cần nhìn đâu xa, tại Á Châu, chúng ta hãy nhìn sang Nhật Bản và
Ấn Độ để học hỏi kinh nghiệm của họ. Tại Nhật Bản, dưới thời Minh Trị
thiên hoàng, nhờ nỗ lực canh tân giáo dục thức thời và hữu hiệu, chỉ
trong vòng chưa đầy hai mươi năm, Nhật đã thoát khỏi cảnh chậm tiến để
trở thành một quốc gia hùng cường trước sự ngạc nhiên và khâm phục của
thế giới. Riêng tại Ấn Độ, dưới thời Thủ Tướng Nehru, nền giáo dục cũng
đã được canh tân triệt để, đặc biệt các ngành khoa học và điện toán. Nhờ
đó ngày nay Ấn Độ đã đào tạo được rất nhiều khoa học gia và kỹ sư điện
toán lỗi lạc với một đội ngũ hùng hậu để phục vụ không những cho Ấn Độ
mà còn làm việc cho rất nhiều công ty khắp nơi trên thế giới.
Nền giáo dục VN hậu Cộng Sản cần phải được nhanh chóng canh tân dựa
vào các nét đặc thù về địa dư, các điểm mạnh và yếu của truyền thống
giáo dục VN và những kinh nghiệm quý báu của thế giới. Có như thế chúng
ta mới hy vọng có thể theo kịp đà tiến bộ của cộng đồng nhân loại văn
minh.
HN: Vừa rồi Giáo Sư đã nêu lên hai trường hợp Nhật Bản và Ấn
Độ. Nền giáo dục của hai nước đó đã được canh tân một cách tốt đẹp nhờ
viễn kiến và sự quyết tâm của Minh Trị Thiên Hoàng tại Nhật Bản và Thủ
Tướng Nerhu tại Ấn Độ. Như vậy, theo Giáo Sư, đâu là các điều kiện tiên
quyết để việc canh tân nền giáo dục VN hậu CS đạt được kết quả tốt đẹp
như ý?
NTT: Điều kiện tiên quyết là nhà cầm quyền hậu Cộng Sản phải ý thức
rằng mục tiêu của Giáo Dục không phải là để phục vụ cho một chế độ, một
đảng phái chính trị hay một tôn giáo nào. Trái lại, Giáo Dục là một công
cuộc đầu tư phi chính trị và dài hạn, mục đích để nâng cao dân trí,
giúp cho dân giàu, nước mạnh. Giáo Dục chỉ có thể phát triển tốt đẹp
nhất trong một môi trường Tự Do và hoàn toàn độc lập với mọi thế lực.
HN: Thưa GS Nguyễn Thanh Trang, trong tuần trước, ông cho
biết Việt Nam có rất nhiều chuyên gia, giáo sư lỗi lạc đang giảng dạy
tại Mỹ, Canada, Pháp, Đức, Úc, Nhật. v.v. Họ có thể về nước giảng dạy và
góp phần canh tân nền giáo dục VN. Nhưng như Giáo Sư đã nhận xét, mỗi
nước có một nền giáo dục đặc thù, có phương pháp đào tạo cá biệt, vậy
liệu rằng khi về nước, họ có chấp nhận làm việc chung với nhau hay
không?
NTT: Thưa anh, khi các chuyên gia Việt Nam từ hải ngoại về, thế nào
cũng không sao tránh khỏi một số dị biệt quan điểm trong khi làm việc
chung với nhau, không những giữa họ với nhau, mà còn giữa họ với các
giáo sư và chuyên gia tại quốc nội nữa. Điều đó rất bình thường và dễ
hiểu và đã từng xảy ra tại Miền Nam trước năm 1975. Vào thời đó, những
người tốt nghiệp từ Úc, Nhật, Canada và Mỹ về sau năm 1960 hầu hết đều
trẻ tuổi hơn các vị từ Pháp về trung bình từ 10 đến 20 tuổi. Không những
họ đã được đào tạo trong các hệ thống giáo dục khác nhau, mà giữa họ
còn có hố cách biệt về tuổi tác. Hơn thế nữa, vào thời đó, các phương
tiện truyền thông chưa được phát triển nên sự thảo luận và thông tin
giữa họ không được rộng rãi, dễ có những hiểu lầm. Nhưng ngày nay báo
chí, truyền thanh, truyền hình quá tiến bộ, phổ thông, nhất là điện
thoại di động và hệ thống điện toán toàn cầu, giúp thế giới ngày càng
thu hẹp, sự trao đổi quan điểm và kinh nghiệm giữa những người trí thức
tâm huyết tại quốc nội và hải ngoại về sẽ dễ dàng hơn, giúp họ dễ thông
cảm nhau trong khi làm việc chung.
No comments:
Post a Comment