Kính thưa quý thính giả! Nguồn dầu thô suy cạn vì đảng CSTQ đã
chiếm trọn Biển Đông, cộng với nạn tham nhũng và tình trạng cán bộ bất
tài trong việc quản trị kinh tế quốc gia, sẽ nhanh chóng đưa đến sự sụp
đổ của CSVN. Mời quý thính giả đài ĐLSN nghe phần Bình Luận của Thường
Sơn với tựa đề: “Tử huyệt thứ tư đã lộ ra: Cạn kiệt dầu thô!” sẽ được
Song Thập trình bày để kết thúc chương trình phát thanh tối nay.
Vào tháng 10 năm 2018, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) đã phải lần
đầu tiên thừa nhận một sự thật mà bấy lâu nay tập đoàn này và đảng chỉ
muốn che giấu càng nhiều càng tốt: Sản lượng dầu tại rất nhiều giếng
đang suy giảm tự nhiên do khai thác đã quá lâu. Cộng vào đó là trữ lượng
gia tăng quá thấp khiến từ nay đến năm 2025, sản lượng khai thác dầu sẽ
giảm đều đặn mỗi năm 10% – tương đương với hơn 2 triệu tấn.
Vào năm 2017, sản lượng khai thác quy dầu của PVN lên tới 25 triệu
tấn. Nhưng với đà ‘suy giảm tự nhiên’ và với mức giảm bắt buộc hơn 2
triệu tấn/năm, đến năm 2025 sản lượng khai thác quy dầu sẽ cao lắm là 10
triệu tấn/năm. Còn nếu trong giai đoạn 2019 – 2015 mà PVN phải chịu sức
ép quá mạnh từ Chính phủ và Bộ Chính trị đảng để phải giữ nguyên hoặc
thậm chí gia tăng sản lượng khai thác dầu khí nhằm bù đắp cho một nền
ngân sách mau chóng cạn kiệt, đặc biệt là gần như cạn hoàn toàn các
nguồn ngoại tệ dùng để trả nợ nước ngoài và chi xài cho công tác ăn tiêu
trong đảng, đến năm 2025 PVN sẽ có thể chẳng còn dầu để khai thác nữa.
Những thông tin trên là hoàn toàn logic với một thông tin từ ông Từ
Thành Nghĩa – Tổng giám đốc Vietsovpetro – vào đầu tháng 2/2018 về “Móng
mỏ Bạch Hổ còn quanh quẩn 10 triệu tấn, tối đa chỉ khai thác được 4-5
năm nữa thôi”, tại Hội nghị tổng kết năm 2017 của PVN.
Điều đó có nghĩa là ngay cả mỏ Bạch Hổ – cung cấp sản lượng lớn nhất,
chiếm hơn 60% sản lượng của PVN từ xưa đến nay – đã vào giai đoạn suy
kiệt.
Đó là chưa kể đến tình trạng sản lượng của một số mỏ dầu khí giảm dần
và không còn mang lại hiệu quả kinh tế cho nhà đầu tư. Trong thời gian
qua một số lô hợp đồng đã phải trả lại cho PVN do không còn hiệu quả
kinh tế, như Lô 46/13 – mỏ Sông Đốc và Lô 01&02/97 mỏ Thăng Long,
Đông Đô.
Vào năm 2012 hoặc 2022 khi mỏ Bạch Hổ trở thành ‘mỏ chết’, PVN sẽ
phải dựa hoàn toàn vào 40% sản lượng còn lại, với điều kiện trữ lượng
của những mỏ dầu còn lại vẫn còn mà không suy kiệt hẳn như Bạch Hổ.
Nhưng ngay trước mắt là một mất cân đối quá lớn đối với ‘khoa học
khai thác dầu khí’: Năm 2017, sản lượng khai thác quy dầu của PVN lên
tới 25 triệu tấn, nhưng phần tìm kiếm thăm dò gia tăng trữ lượng chỉ là 4
triệu tấn, tức trữ lượng mới chỉ chiếm 1/6 sản lượng đang khai thác.
Nếu tình trạng mất cân đối giữa tìm kiếm thăm dò gia tăng trữ lượng và
khai thác vẫn tiếp diễn như hiện nay thì chỉ vài năm nữa, sản lượng khai
thác dầu khí của PVN sẽ chỉ còn 1/3 sản lượng so với hiện thời.
Vào đầu năm 2017, một báo cáo của PVN đã thừa nhận rằng gia tăng trữ
lượng dầu khí năm 2017 đạt thấp hơn nhiều so với mục tiêu chiến lược đề
ra: Mục tiêu đề ra trong nước là 20-30 triệu tấn/năm và ở nước ngoài là
8-12 triệu tấn/năm (tổng cộng là 28-42 triệu tấn/năm) nhưng trong 2 năm
2016 và 2017 PVN đều không hoàn thành khi đạt thấp hơn nhiều (năm 2016
đạt 16.66 triệu tấn quy dầu và năm 2017 đạt 4.0 triệu tấn quy dầu). Hầu
hết các mỏ đều đã khai thác trong thời gian dài và đang trong giai đoạn
cuối dẫn tới suy giảm sản lượng tự nhiên hàng năm từ 15% tới trên 30%.
2017 cũng là năm gia tăng trữ lượng dầu khí thấp nhất từ trước đến
nay, chỉ đạt 4 triệu tấn dầu, thấp nhất lịch sử. Một quan chức của PVN
là Tổng giám đốc Nguyễn Vũ Trường Sơn phải thừa nhận: “Trước đây hàng
năm, PVN khoan 30-40 giếng thăm dò, chi phí tốn từ 2-2.5 tỷ USD, gia
tăng được 35-40 triệu tấn quy dầu. Thế nhưng, từ 2015 trở lại đây, đầu
tư của ta và nước ngoài chỉ đâu đó 400-500 triệu USD cho tìm kiếm thăm
dò, giảm 5 lần so với trước”.
Với tình trạng trữ lượng dầu cạn kiệt nhanh trong khi quá khó để tìm
ra nguồn trữ lượng mới, có thể hình dung là vào năm 2021, ngân sách chế
độ sẽ mất hẳn số thu 70,000 – 80,000 tỷ đồng từ PVN mà do đó sẽ ‘kiến
tạo’ một lỗ thủng toang hoác không lấy gì bù trám được.
Tương lai đen tối trên đang hiển hiện trong bối cảnh hiện thời các
nguồn ngoại tệ mạnh từ viện trợ không hoàn lại, viện trợ ODA và cả nguồn
kiều hối của ‘khúc ruột ngàn dặm’ đều khá bi đát. Từ năm 2014, chính
thể Việt Nam đã không còn nhận được nguồn vốn ODA đáng kể nào, còn từ
năm 2018 đã không còn ODA ưu đãi. Trong khi đó, lượng kiều hối gửi về
Việt Nam vào năm 2017 và 2018 có thể sụt giảm đến phân nửa so với mức
đỉnh 13.5 tỷ USD vào năm 2015…
Thường Sơn
No comments:
Post a Comment