Kính thưa quý thính giả,
Từ sau năm 944, cứ đến ngày 18 tháng Giêng, người Việt đều tổ chức lễ kỷ niệm chiến thắng Bạch Đằng Giang để nhắc nhớ chiến tích lẫy lừng của đức Ngô Quyền và thế hệ Ngô Vương. Ý chí kiên cường và tinh thần bất khuất của dân tộc đã tạo nên chiến thắng vẻ vang khi toàn quân Nam Hán xâm lược bị đập tan. Chiến thắng này là một trong những chiến công hiển hách nhất trong lịch sử chống ngoại xâm, mãi đến ngày hôm nay vẫn còn là niềm tự hào của dân tộc Việt. Qua chuyên mục Danh Nhân Nước Việt tuần này, chúng tôi xin gửi đến quý thính giả bài “Chiến Thắng Bạch Đằng” của Việt Thái qua giọng đọc của Minh Nguyệt để kết thúc chương trình phát thanh tối hôm nay.
Việt Thái
Năm 937, Hào trưởng đất Phong Châu là Kiều Công Tiễn hạ sát Dương Đình Nghệ đoạt chức vụ Tĩnh Hải Quan Tiết Độ Sứ. Sau sự kiện này, họ Kiều bị nhiều thế lực địa phương chống đối và nội bộ bị chia rẽ trầm trọng. Trước tình thế đó, Kiều Công Tiễn vội vã cầu cứu nhà Nam Hán. Vua Nam Hán là Lưu Cung liền cử Thái tử Lưu Hoằng Tháo dẫn đại quân sang cứu Kiều Công Tiễn.
Nghe hung tin, Ngô Quyền liền tập hợp lực lượng, kéo quân ra Bắc giết chết Kiều Công Tiễn vào mùa thu năm 938 và chuẩn bị trận quyết chiến với quân Nam Hán tại sông Bạch Đằng.
Lợi dụng mức thủy triều lên xuống của sông Bạch Đằng, Ngài sai quân đóng cọc dưới lòng sông, đầu cọc bịt sắt nhọn. Khi thủy triều lên cao, bãi cọc bị che khuất, Ngài dùng kế nhử quân Nam Hán vào trong sông và đợi thủy triều rút xuống làm cho thuyền quân Nam Hán bị mắc cạn mới điều động thủy quân dùng thuyền nhỏ lao ra công hãm.
Quân Nam Hán đại bại, Lưu Hoằng Tháo thiệt mạng cùng với hơn phân nửa số quân sĩ. Kể từ đó, nhà Nam Hán phải từ bỏ giấc mộng xâm chiếm An Nam.
Chiến thắng của đức Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng vào năm 938 đã chấm dứt cuộc xâm lược của nhà Nam Hán, đồng thời cũng kết thúc luôn thời kỳ đô hộ của giặc Tàu hơn một ngàn năm.
Năm 939, đức Ngô Quyền xưng vương, đóng đô ở Cổ Loa, lập ra nhà Ngô. Ngài trị vì được 6 năm, được con dân Việt xem là vị đại anh hùng của dân tộc.
Theo Việt sử ghi lại, đức Ngô Quyền sinh năm Mậu Ngọ (898), Cha là Ngô Mân, Châu mục của Đường Lâm, thuộc dòng họ hào trưởng có thế lực. Ngài với dáng người khôi ngô và có sức mạnh phi thường, được sử sách mô tả là bậc anh hùng tuấn kiệt, trí dũng song toàn.
Ngày 18 tháng Giêng năm Giáp Thìn (944), Ngài băng hà, hưởng dương 47 tuổi, được gọi là Tiền Ngô Vương. Người dân Việt lập đền thờ và lăng ở Đường Lâm. Tại khu vực hạ lưu sông Bạch Đằng có hơn 30 đền và miếu thờ Ngài cùng thế hệ Ngô Vương.
Sử gia Ngô Sĩ Liên ca tụng đức Ngô Quyền là một thiên tài về quân sự, có công dựng lại nền tự chủ cho dân tộc, đồng thời cho rằng Ngài có phong thái của một bậc đế vương. Cụ Phan Bội Châu và Trần Quốc Vượng đều tôn vinh Ngài là “vị Tổ trung hưng của dân tộc Việt”.
Trong số những vị vua cai trị nước Việt vào thế kỷ thứ 10, Ngài cùng Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành là những nhân vật được người đời sau nhắc nhở nhiều nhất.
*****
Ngày nay nhắc đến chiến thắng Bạch Đằng là nhắc nhớ công lao tạo nên chiến tích lẫy lừng của đức Ngô Quyền và thế hệ Ngô Vương. Đồng thời nhắc nhở con dân Việt về tình trạng Tổ quốc lâm nguy, không khác gì bối cảnh “thù trong giặc ngoài” mà đức Ngô Quyền phải trực diện hơn một ngàn năm trước.
Mấy chục năm qua, tập đoàn lãnh đạo cộng sản VN ngày càng thần phục quan thầy phương Bắc, họ đã và đang nhẫn tâm dâng hiến đất đai, biển đảo và nhiều tài nguyên đất nước cho Tàu Cộng. Và khi quân Tàu tàn sát dân Việt trên Biển Đông, cả tập đoàn này vẫn hăng hái hô hào tăng cường mối liên hệ hữu hảo với bọn giặc, thậm chí đám lãnh đạo tập đoàn bị Tàu Cộng gọi là “đứa con hoang” mà cũng không dám lên tiếng.
Hơn thế nữa, chính tập đoàn này đã hủy diệt nền văn hiến và đạo sống ngàn đời của dân tộc. Điều này khiến cho người Việt khắp nơi đau lòng và hỗ thẹn, nhiều người còn quan tâm đến tiền đồ của đất nước đã không ngại hiểm nguy vùng lên tranh đấu giải thể chế độ cộng sản và kêu gọi chống giặc ngoại xâm đã bị bạo quyền cộng sản cầm tù, thậm chí còn bị giết chết.
Trước nguy cơ Việt Nam bị xóa tên trên bản đồ thế giới, con dân Việt trong và ngoài nước không còn cách nào khác hơn là phải vùng lên giải trừ chế độ cộng sản, đồng tâm hiệp lực chống lại hiểm họa Bắc thuộc mới để nước Việt được trường tồn, ngõ hầu khỏi phải hổ thẹn với Quốc Tổ và các bậc Tiền nhân đã dầy công dựng nước và giữ nước./.
No comments:
Post a Comment