Kính thưa quý thính giả,
Một nhà trí thức với tính nết
thuần hậu, thông minh hơn người, có tấm lòng yêu nước và tư tưởng tự hào dân tộc, muốn cải cách xã hội Việt Nam. Ngoài ra, ông cũng là một nhà
chính trị luôn quan tâm đến ước muốn của người dân.
Trong chuyên mục Danh nhân nước Việt tuần
này, chúng tôi xin gửi đến quý thính giả bài “Học giả Lê Quý Đôn” của Việt Thái qua giọng đọc của Minh Nguyệt để chấm dứt chương trình phát thanh tối
hôm nay.
Lê Quý Đôn tên là Lê Danh Phương, tự Doãn Hậu, hiệu Quế Đường, là vị quan thời Lê trung hưng. Ông cũng là nhà thơ và được vinh danh là “nhà bác học Việt Nam trong thời phong kiến”. Ông sinh ngày 2/8/1726 tại làng Diên Hà, trấn Sơn Nam (nay là huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình). Cha ông là Tiến sĩ Lê Phú Thứ, từng giữ chức Hình bộ Thượng thư. Mẹ ông họ Trương, là con gái thứ 3 của Tiến sĩ Trương Minh Lượng.
Thuở nhỏ, Lê Quý Đôn nổi
tiếng thông minh, ham học, được xem là
"thần đồng"trong vùng. Lúc 5 tuổi, học thuộc nhiều bài trong Kinh Thi.
Năm 12 tuổi, thuộc lòng toàn bộ "kinh, truyện, sử trong
các sách của Bách gia Chư tử".
-Năm Quý Hợi, đời vua Lê Hiển Tông, ông dự thi Hương, đỗ Giải nguyên lúc 17 tuổi. Sau đó, ông lập gia đình với cô Lê Thị
Trang, con gái thứ 7 của Tiến sĩ Lê Hữu Kiều.
Tuy đỗ đầu kỳ thi Hương
nhưng khi thi Hội mấy lần, ông đều bị đánh rớt, nên ở
nhà dạy học và viết sách trong khoảng 10 năm. Đại Việt thông sử là do ông viết trong giai đoạn này.
-Năm 26 tuổi, ông lại dự
thi Hội và lần này đỗ Hội Nguyên. Vào thi Đình,
ông đỗ luôn Bảng Nhãn. Kể như là 3 kỳ
thi, ông đều đỗ đầu khoa.
-Năm 1753, ông được bổ làm Thị thư ở Viện Hàn Lâm, thăng làm Toản
tu Quốc sử vào mùa xuân năm 1754.
-Năm 1756, được cử đi thanh tra trấn Sơn Nam. Đến tháng 5, ông chuyển qua Binh bộ. Ba tháng sau, ông được cử đi hiệp đồng các đạo Sơn Tây, Tuyên Quang, Hưng Hóa... và sau đó, ông dẫn quân đánh
Hoàng Công Chất (thủ lãnh cuộc khởi nghĩa chống vua Lê, chúa Trịnh).
-Năm 1757, được thăng làm Hàn lâm viện Thị giảng. Trong
năm này, ông viết Quần thư khảo biện.
-Năm 1759, vua Lê Ý Tông băng
hà, triều đình cử ông làm Phó sứ, cùng với Lê Duy Mật, Trịnh Xuân Chú sang
Trung Hoa. Thấy các quan nhà
Thanh có thói quen gọi sứ đoàn của Đại Việt là Di quan, Di mục nên ông phản đối, từ đó về sau sứ bộ của
nước Việt có tên là An Nam sứ.
-Năm 1762 trở về nước, ông được thăng làm Thừa chỉ Viện Hàn Lâm, lên chức Học Sĩ.
-Năm 1763, ông viết Bắc sứ Thông lục và được cử
làm Chủ khảo khoa thi Hội.
-Năm 1765, được cử làm Tham chính xứ Hải Dương, nhưng ông dâng sớ không nhận và
xin về hưu. Được chấp thuận, ông trở về quê viết sách.
-Năm 1767, ông được cử làm Tán lý Quân vụ trong quân
doanh của Nguyễn Phan đi dẹp cuộc nổi dậy của Lê Duy Mật ở Thanh Hóa.
-Năm 1768, ông viết xong bộ Toàn Việt thi lục, dâng lên chúa Trịnh.
-Năm 1769, ông dâng sớ xin lập đồn điền khẩn hoang ở Thanh Hóa.
-Năm 1770, được thăng làm Hữu thị lang bộ Hộ,
kiêm Thiêm đô Ngự sử.
-Năm 1772, ông được cử đi điều tra về tình hình nhũng lạm của quan
viên tại Lạng Sơn.
-Năm 1774, chúa Trịnh Sâm thân chinh mang quân đánh Thuận Hóa,
ông ở lại nhận chức Lưu thủ Thăng Long.
-Năm 1775, ông lên chức Tả thị lang bộ Lại, kiêm
Tổng tài Quốc sử quán.
-Năm 1783, ông làm Hiệp trấn xứ Nghệ An. Ít lâu sau, ông được triệu
về triều nhận chức Thượng thư bộ Công.
-Năm 1784, ông từ trần,
hưởng dương 58 tuổi. Vua Lê Hiển
Tông cho bãi triều 3 ngày, cử Bùi Huy Bích làm
chủ lễ an táng và truy tặng ông chức Công bộ
Thượng thư.
*****
Nhà sử học Phan Huy Chú viết rằng, Lê Quý Đôn là một "nhà bác học ham đọc, ham biết và ham
viết" và là "một nhà bác học có kiến thức hết sức uyên
bác và đa dạng".
Học giả Lê Quý Đôn với học vấn uyên bác đã trở thành người tri thức của thời
đại. Có thể nói, toàn bộ những tri thức cao nhất ở thế kỷ thứ 18 của nước Việt, đều được ghi vào trong các tác phẩm của ông. Chính vì thế, tên ông
được đặt cho nhiều trường học, nhiều đường phố ở khắp nơi trong nước.
Thế nhưng,
nếu đọc kỹ tiểu sử của Lê Quý Đôn, thì ông không chỉ là một người thông kim bác
cổ, mà còn là một nhà quân sự có tài từng tham gia nhiều vụ dẹp loạn. Chính vì sự
đa tài này, đã khiến cho triều đình nhà Thanh khâm phục.
Điều đáng nói,
là bối cảnh xã hội Việt Nam khi ấy đã bước vào thời Lê mạt, với Trịnh - Nguyễn
phân tranh, khiến Đại Việt biến thành 2 nước, nhưng vẫn sản sinh ra nhiều nhân
tài, điển hình như Lê Quý Đôn, La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp .v.v. không chỉ hiếu
học, mà còn quan tâm đến vận mệnh đất nước, chấp nhận dấn thân tích cực vào
việc cải tổ xã hội, cứu vớt dân chúng thoát khỏi cảnh lầm than.
Lịch sử ghi nhận là khi triều đình lụn bại, chế độ suy đồi
thì đều có những anh hùng hào kiệt giương cờ khởi nghĩa, với khát vọng diệt trừ
"hôn quân và tham quan" để mang lại hạnh phúc cho toàn dân. Việt Nam hiện nay cũng vậy, trong tình hình
kinh tế suy thoái, đạo đức suy đồi, xã hội băng hoại, nhiều anh thư hào kiệt kế
thừa tinh thần Lê Quý Đôn, đã vùng lên tranh đấu “thay đổi thể chế chính trị”,
bất chấp sự đàn áp khốc liệt của bạo quyền Cộng Sản, để Việt Nam thoát khỏi thảm
họa mất nước về tay Tàu Cộng phương Bắc.
No comments:
Post a Comment