Biến đổi khí hậu không còn là khái niệm xa vời mà là nỗi ám ảnh từng ngày của dân chúng Việt Nam.
Trong chuyên mục BÌNH LUẬN hôm nay, kính mời quý thính giả theo dõi bài "Việt Nam Trước Thảm Họa ‘Biến Đổi Khí Hậu’” của THẾ VŨ, thành viên BAN BIÊN TẬP đài ĐLSN, do Hướng Dương trình bày sau đây....
Biến đổi khí hậu đã trở thành mối quan tâm lớn nhất của dân chúng Việt Nam. Điều này không phải do dân Việt bỗng dưng ý thức cao hơn, mà vì đất nước đang ở vào vị trí quá mong manh trước thiên nhiên. Đồng bằng sông Cửu Long, vựa lúa của cả nước, ngày càng bị nước mặn xâm nhập. Mùa khô, từng cánh đồng nứt nẻ. Mùa mưa, lũ lụt dâng cao cuốn phăng ruộng vườn, nhà cửa. Ở miền Trung, bão tố dồn dập, mỗi năm hàng chục cơn bão khiến người dân không kịp chống đỡ. Miền Bắc, nắng nóng kỷ lục, hồ ao cạn khô, thủy điện thiếu nước phát điện. Mỗi gia đình đều trực tiếp gánh chịu. Biến đổi khí hậu không còn là khái niệm xa vời mà là nỗi ám ảnh từng ngày.
Trong khảo sát của Viện Nghiên Cứu Đông Nam Á (ISEAS)
năm 2025, hơn 70 phần trăm người Việt xếp biến đổi khí hậu là mối lo số một.
Con số này cao nhất Đông Nam Á. Điều đó phản ánh sự thật rằng đời sống đã bị đe
dọa nghiêm trọng. Không ai có thể yên tâm chỉ bàn chuyện giá cả hay việc làm.
Khi thiên nhiên nổi giận, tất cả đều cùng khổ. Thảm trạng môi sinh đã chạm đến
cửa ngõ từng nhà. Người dân không thể phó mặc cho chính quyền chỉ nói suông về
tăng trưởng mà bỏ quên nền tảng môi trường sống. Nếu cơm gạo không còn, nếu nước
uống thiếu, nếu bầu khí ngột ngạt thì mọi thành quả khác chỉ là ảo tưởng.
Nguyên nhân bắt nguồn từ hai phía. Một là khách quan:
Việt Nam nằm trong nhóm quốc gia dễ tổn thương nhất trước biến đổi khí hậu. Bờ
biển dài, đồng bằng thấp, khí hậu nhiệt đới khắc nghiệt. Hai là chủ quan: chính
sách quản trị môi sinh tệ hại, phát triển bằng mọi giá, khai thác vô tội vạ, bất
chấp cảnh báo khoa học. Từ chặt phá rừng đầu nguồn đến bê tông hóa đô thị, từ xả
thải công nghiệp đến khai thác cát, tất cả góp phần phá hủy môi trường. Nhà cầm
quyền biết nhưng không ngăn chặn, bởi lợi ích nhóm che mờ trách nhiệm.
Hãy nhìn cách nhà cầm quyền CSVN đối xử với rừng. Việt
Nam từng có rừng già bạt ngàn, nay chỉ còn rừng nghèo kiệt. Lâm tặc hoành hành,
gỗ rừng bị đưa đi từng đoàn xe, có sự bảo kê. Khi bão lũ về, đất trôi, lũ quét,
dân chết, quan chức chỉ kêu gọi khắc phục hậu quả. Nhà cầm quyền xem môi trường
như món hàng mặc cả, không phải tài sản chung. Đó là nguyên nhân khiến người
dân bất an, và vì vậy họ đặt biến đổi khí hậu lên hàng đầu.
Ngoài rừng, hãy nhìn vào sông ngòi và biển cả. Nhà máy
xả thải chất độc hại xuống sông. Biển miền Trung từng chịu thảm họa Formosa, cá
chết trắng bờ. Chính quyền ban đầu chối quanh, sau ém nhẹm, cuối cùng bắt bớ
dân khi họ phản đối. Niềm tin vào nhà nước đã mất. Người dân hiểu rằng nếu
không tự lo thì sẽ chết dần. Họ thấy chính quyền coi thường mạng sống dân thường,
chỉ bảo vệ nhà đầu tư ngoại quốc. Do đó, khi được hỏi điều gì đáng lo, họ trả lời
ngay: biến đổi khí hậu.
Một nguyên nhân khác là chính quyền quá say mê tăng
trưởng GDP mà bỏ quên chất lượng đời sống. Khu công nghiệp mọc lên dày đặc,
nhưng cơ sổ hạ tầng giải quyết vấn đề môi trường yếu kém. Khói bụi ngộp thở
thành phố. Đất nông nghiệp thu hẹp. Nguồn nước ô nhiễm. Con số bệnh tật, ung
thư gia tăng. Dân hiểu nguyên nhân chính không phải từ “ông trời”, mà từ chính
sách. Nếu có một chính quyền minh bạch, dân chủ, có kiểm soát độc lập, đã không
xảy ra tình trạng này. Nhưng dưới chế độ độc đảng, mọi sai phạm được bao che.
Tài nguyên bị khai thác bừa bãi, lợi nhuận rơi vào túi thiểu số.
Dân chúng quan tâm đến khí hậu không chỉ vì sợ bão lũ,
mà còn vì thấy tương lai con cháu bị đe dọa. Khi đồng bằng sông Cửu Long chìm
trong nước mặn, khi thủy sản cạn kiệt, khi nông dân bỏ ruộng kéo nhau lên thành
phố, đất nước này sẽ đối diện khủng hoảng xã hội. Ai sẽ chịu trách nhiệm cho viễn
cảnh ấy? Không ai khác ngoài tập đoàn cầm quyền. Họ đã tự nhận lãnh đạo toàn diện
thì cũng phải chịu trách nhiệm toàn diện. Không thể vừa hưởng đặc quyền, vừa trốn
tránh hậu quả.
Thái độ chính quyền trước biến đổi khí hậu thường chỉ
là hình thức. Họ ký hiệp ước quốc tế, hứa giảm khí thải độc hại, nhưng vẫn mở
thêm nhà máy nhiệt điện than. Họ hô khẩu hiệu tăng trưởng xanh nhưng lại cho
phép phá rừng xây thủy điện. Họ kêu gọi tiết kiệm năng lượng nhưng bản thân
tiêu xài hoang phí. Chính sự giả dối đó khiến dân mất niềm tin. Người dân buộc
phải cảnh giác, tự ý thức, và vì thế biến đổi khí hậu trở thành quan tâm lớn nhất.
Mối quan tâm này còn cho thấy sự trưởng thành của xã hội
dân sự. Khi người dân hiểu môi trường sống quan trọng hơn khẩu hiệu chính trị,
họ sẽ đặt câu hỏi về năng lực và tính chính danh của nhà cầm quyền. Đảng CSVN có
thể đàn áp tiếng nói phản biện, nhưng không thể cấm dân lo lắng về tương lai.
Càng ngày, mối quan tâm ấy càng dâng cao và sẽ biến thành áp lực chính trị. Một
chính quyền không thể tồn tại nếu để dân chúng chìm trong thiên tai, bệnh tật,
và bất an.
Biến đổi khí hậu, vì vậy, không chỉ là vấn đề tự nhiên. Nó là phép thử cho tính chính đáng của nhà nước. Ở Việt Nam, dân chúng đã thấy rõ sự bất lực và vô trách nhiệm của chế độ. Vì thế, họ coi đây là quan tâm hàng đầu, hơn cả miếng ăn. Người dân hiểu rằng nếu không bảo vệ được môi sinh, thì cơm gạo cũng chẳng còn để ăn. Và khi ấy, nhà cầm quyền không thể viện cớ gì để tiếp tục cai trị./.
No comments:
Post a Comment