Thursday, August 21, 2025

LẠM PHÁT ĐẠI TƯỚNG – KHI LON TƯỚNG TRỞ THÀNH MÓN HÀNG CHÍNH TRỊ

Bình Luận

Dưới sự cai trị của đảng CSVN, Việt Nam có lắm “hiện tượng đặc biệt” như “văn hóa phong bì”, “tập quán bạo lực”, vân vân ... Nay lại có thêm một hiện tượng mới: “Lạm phát Đại tướng”.

Trong phần bình luận hôm nay, kính mời quý thính giả theo dõi bài “Lạm Phát Đại Tướng– Khi Lon Tướng Trở Thành Món Hàng Chính Trị” của Thế Vũ, thành viên Ban Biên Tập đài ĐLSN, sẽ do Miên Dương trình bày sau đây ...

Trong chín tháng ngắn ngủi vừa qua đã có đến 3 người được phong đại tướng. Đó là Lương Tam Quang và Nguyễn Tân Cương cùng lên đại tướng vào ngày 20 tháng 10 năm, 2024, và mới đây, ngày 16 tháng 7, 2025 là Trịnh Văn Quyết.  Cộng với 3 đại tướng có sẵn là Tô Lâm, Tổng Bí thư, Lương Cường, Chủ tịch nước, và Phan Văn Giang, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, là tổng cộng có 6 đại tướng, gồm 2 xuất thân từ Công an là Tô Lâm và Lương Tam Quang, 4 còn lại từ Quân đội.

Trước kia, suốt ba mươi năm chiến tranh đầy máu lửa, miền Bắc cũng chỉ có ba người mang lon đại tướng. Còn miền Nam, trải qua hai mươi năm giao tranhliên tục, cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay có sáu người được vinh danh. Vậy mà giữa thời bình, khi chẳng có một trận đánh nào, những quan chức chỉ quen ngồi phòng lạnh, lại liên tục được khoác lon đại tướng, thì thử hỏi sự phong tướng ấy còn giá trị gì không. Rõ ràng đó không còn là vinh dự xứng đáng, mà chỉ là món hàng trao đổi trong cuộc sát phạt quyền lực.

Nguyên nhân trước tiên đến từ tâm lý háo danh và khát vọng củng cố địa vị phe nhóm trong nội bộ đảng Cộng sản. Khi một phe có đại tướng, phe kia cũng phải có đại tướng để cân bằng. Khi Phan Văn Giang còn là Bộ trưởng Quốc phòng với hàm đại tướng, thì Lương Tam Quang bên Bộ Công an cũng phải được nâng ngang hàng. Khi phe Giang đưa Nguyễn Tân Cương lên, thì phe Tô Lâm cũng đẩy Trịnh Văn Quyết vào hàng ngũ đại tướng. Quân hàm không còn phản ánh công trạng ngoài chiến trường, mà trở thành lá bài trong ván cờ tranh ghế tại Đại hội 14 sắp tới.

Nguyên nhân sâu xa hơn là do cơ chế độc quyền chính trị. Khi mọi quyền lực tập trung vào tay đảng CSVN, thì quân đội và công an trở thành công cụ giữ ngai vàng cho đảng. Thay vì bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ dân, họ chỉ lo giữ ghế cho một nhóm nhỏ. Được phong đại tướng, các ông tướng này càng vững chắc ngồi trên cả luật pháp, vì quân đội và công an nắm trọn điều tra, viện kiểm sát, tòa án. Không ai dám động vào, và thế là tham nhũng tha hồ tung hoành, dự án thất thoát, ngân khố quốc gia rơi vào túi riêng. Một chức vụ đại tướng ở Việt Nam ngày nay không phải là gánh vác trọng trách, mà là cái khiên che chắn cho đặc quyền đặc lợi.

Hậu quả trước hết là làm mất ý nghĩa thiêng liêng của cấp bậc quân sự. Trong mọi quân đội đúng nghĩa, hàm đại tướng chỉ dành cho những vị tướng trận mạc, với chiến công lẫy lừng và kinh nghiệm chỉ huy dày dạn. Nó là biểu tượng của tinh hoa, của niềm tin chiến thắng. Ở Việt Nam hôm nay, khi người dân nghe tới tên các “đại tướng” mới, phần đông chẳng ai biết họ là ai, cũng chưa từng nghe tới chiến tích nào. Vậy uy tín ở đâu để quân sĩ kính phục, và nhân dân tin cậy? Một lon tướng phong cho người vô danh chỉ làm trò cười, khiến giá trị quân hàm trở thành tầm thường.

Hậu quả kế tiếp là đất nước đối diện với nguy cơ tê liệt khi có chiến sự. Một quốc gia không thiếu kẻ ngồi ghế đại tướng, nhưng lại thiếu những con người từng chỉ huy thực sự ngoài trận tiền, thì làm sao chống đỡ nổi ngoại xâm. Bốn mươi năm yên bình không phải là lý do để phong tướng tràn lan, mà lẽ ra là thời gian rèn luyện trí thức, kỹ năng quân sự hiện đại. Nhưng khi tướng chỉ là sản phẩm chính trị, thì khi có biến, những kẻ ấy chỉ biết dựa vào báo cáo, nghị quyết, chứ không đủ khả năng thao lược.

Hậu quả còn nằm ở chỗ gây ra sự phân hoá quyền lực, làm cho đất nước chìm trong cảnh tranh giành. Mỗi tấm lon đại tướng là một nấc thang cho phe phái leo lên, và một công cụ để chèn ép đối thủ. Trong cuộc chạy đua ấy, chẳng ai quan tâm đến dân, đến nước. Công an lấn quân đội, quân đội kìm công an, và cả hai chỉ nhằm phục vụ quyền lợi của Tổng Bí thư cùng phe nhóm thân tín. Khi ấy, quốc gia bị biến thành bàn cờ, còn dân tộc thành quân tốt thí.

Nguy hiểm hơn cả, lạm phát đại tướng gieo rắc tâm lý bất cần trong xã hội. Người dân thấy rõ lon tướng không còn do công trạng mà do sự sắp đặt phe nhóm. Lòng tin vào thể chế càng sụt giảm. Quân sĩ nhìn lên cấp chỉ huy, không còn kính trọng mà chỉ thấy đó là kẻ leo thang bằng chính trị. Một quân đội mất niềm tin, một công an bị coi khinh, thì làm sao còn sức mạnh để bảo vệ non sông?

Sự lạm phát đại tướng phản ánh đúng bản chất tha hoá của chế độ Cộng sản. Họ quen sử dụng mọi danh hiệu, chức vị như công cụ củng cố quyền lực, thay vì phụng sự quốc gia. Đã đến lúc phải nhìn thẳng rằng, đất nước này không cần nhiều đại tướng, mà cần những nhà lãnh đạo liêm chính, tài năng, có lòng với dân. Cấp bậc chỉ là phù hiệu, còn niềm tin và năng lực mới là sức mạnh thật sự.

Một quốc gia mà đại tướng nhiều hơn chiến công thì chỉ là quốc gia yếu đuối. Một dân tộc mà lon tướng trở thành món hàng mặc cả, thì chỉ còn là dân tộc bị trị. Và một chế độ mà danh hiệu tối cao của quân đội bị đem ra làm trò đổi chác, thì chế độ ấy đã tự phơi bày sự suy tàn. Lon tướng không thể che giấu được sự mục ruỗng của thể chế, cũng như danh xưng không thể cứu vãn được một chính quyền đã mất niềm tin./.

 

No comments:

Post a Comment