Saturday, December 3, 2022

Nguyễn Trường Tộ, nhà cải cách xã hội

Danh Nhân Nước Việt

Kính thưa quý thính giả,

Một người có tấm lòng yêu nước thiết tha, tin tưởng vào triển vọng canh tân, đặt hy vọng vào thế hệ trẻ được đào tạo để làm mạnh thế nước... Tuy chưa có ý thay thế chế độ phong kiến bằng một thể chế dân chủ vì tình hình đất nước, nhưng tư tưởng của ông giống như tư tưởng tiến hóa của phương Tây. Ông nhìn xa thấy rộng, có khả năng ứng dụng vào thực tế, nhưng tiếc thay, ông "sinh bất phùng thời" nên chỉ đóng vai trò "làm chứng nhân cho vận mệnh của đất nước".

Trong tiết mục “Danh nhân nước Việt” tuần này, chúng tôi xin gửi đến quý thính giả bài “Nguyễn Trường Tộ, nhà cải cách xã hội” của Việt Thái qua giọng đọc của Minh Nguyệt để chấm dứt chương trình phát thanh tối hôm nay.

Nguyễn Trường Tộ sinh năm 1830, sống trong một gia đình theo đạo Công Giáo nhiều đời ở làng Bùi Chu, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Thân phụ ông là Nguyễn Quốc Thư. Thuở thiếu thời, Nguyễn Trường Tộ học chữ Hán với cha và thầy Tú Giai, Cống Hữu và quan huyện Địa Linh.

Ông thông minh, học giỏi, nên được gọi là "Trạng Tộ". Sau khi nghỉ học, ông mở trường dạy chữ Hán tại nhà và được mời dạy tại Xã Đoài. Tại đây, ông được Giám mục người Pháp tên là Gauthier dạy tiếng Pháp và các môn khoa học thực nghiệm của Tây phương.

Đầu năm 1859, Giám mục Gauthier giới thiệu ông làm việc ở Hồng Kông. Sau khi nghỉ việc, ông dồn hết tâm trí vào việc thảo kế hoạch giúp nước. Nhờ hiểu biết sâu rộng về phương diện chính trị, kinh tế, văn hóakhoa học kỹ thuật nên đầu tháng 5 năm 1863, ông thảo xong 3 bản điều trần có tên là "Tế cấp luận", "Giáo môn luận""Thiên hạ phân hợp đại thế luận" gửi lên triều đình nhà Nguyễn ở Huế.

Ngoài ra, ông còn thảo thêm bài "Trần tình" để giải bày tâm tư và hoàn cảnh của mình, vì sợ triều đình nghi ngờ ông làm việc cho Pháp.

Trong thời gian phái bộ của cụ Phan Thanh Giản ở Pháp về Sài Gòn chờ tàu để đi Huế, ông tiếp xúc với các Chánh Phó Sứ để thảo luận nhiều vấn đề liên quan đến việc xây dựng và bảo vệ đất nước. Sau đó, ông viết "Lục lợi từ" vào tháng 6 năm 1864 gửi lên triều đình, nhưng cũng không thấy hồi âm.

Từ năm 1862 đến năm 1864, ông thiết kế và đích thân xây cất Tu viện Dòng Thánh Phao Lô Sài Gòn. Đây là một công trình kiến trúc theo kiểu Âu châu. Thành công này đã làm cho tiếng tăm của ông lan rộng.

Năm 1864, ông được người Anh mời sang dự Hội nghị Khoa học ở Anh, nhưng chưa lên đường  thì bị thực dân Pháp ngăn cản.

Khoảng cuối năm 1864 đến đầu năm 1865, ông gửi liên tiếp 3 bản điều trần cho Đại thần Trần Tiễn Thành và 2 bản điều trần cho Đại thần Phạm Phú Thứ, nhờ chuyển lên vua và triều đình.

Ngày 17/8/1866, ông cùng với Giám mục Gauthier và Linh mục Nguyễn Điều tới Huế. Lần này, ông được vua Tự Đức tiếp kiến trong thành nội và được nhà vua lắng nghe những đề nghị cải cách.

Tháng 10 năm 1870, ông gửi thư lên triều đình đề nghị lập Tòa lãnh sự ở Sài Gòn và Tòa đại sứ ở Pháp để nắm tình hình chính trị. Đầu tháng 11, ông xin được vào Nam tổ chức đánh úp quân Pháp để thu hồi 6 tỉnh Nam Kỳ, nhân lúc nước Pháp đang thua Đức và cuộc Cách mạng Pháp đang nổ ra.

Đầu năm 1871, ông nhận được lệnh cấp tốc ra Huế với lý do "đưa học sinh đi Pháp", nhưng kỳ thực là để bàn với vua Tự Đức về sách lược quân sự và ngoại giao, mà ông đã trình bày trong các văn bản gởi cho triều đình vào cuối năm 1870. Nhưng cuối cùng triều đình Huế không quyết định.

Sau mấy tháng sống ở Huế, vì bệnh cũ tái phát ông trở về Xã Đoài, đến ngày 22/11/1871, ông từ trần vì bệnh xuất huyết bao tử, hưởng dương 41 tuổi, ông được an táng tại thôn Bùi Chu. Mộ ông được làm bằng đá cẩm thạch trên một gò đất cao giữa cánh đồng rộng.

Để ghi nhớ công lao của ông, nhiều con đường và trường học được đặt tên Nguyễn Trường Tộ.

Con ông là Nguyễn Trường Cửu, trong bài Sự tích ông Nguyễn Trường Tộ” đã viết ngắn gọn rằng: "Qua năm sau, Tự Đức thứ 24, ngày 10 tháng 10, ông Nguyễn Trường Tộ làm 2 câu thơ trước khi qua đời: "Nhất thất túc thành thiên cổ hận, Tái hồi đầu thị bách niên cơ." Có nghĩa là: Lỡ một bước thành muôn kiếp hận, nhìn trở lại nghiệp ấy trăm năm.

***

Có thể nói rằng, trong giai đoạn bị thực dân Pháp đô hộ và sự hủ bại của triều đình nhà Nguyễn kéo dài hơn 80 năm, nước Việt đã sản sinh ra nhiều nhà thông thái về đủ mọi lãnh vực, trong đó có Nguyễn Trường Tộ. Ông không chỉ là một nhà trí thức, mà còn là người có tấm lòng với đất nước, khát khao đưa dân tộc theo đà tiến hóa của nhân loại qua 58 bản điều trần. Nhưng tiếc thay, cũng như nhiều bậc tiền bối khác, ông đã không cải biến được vận mệnh bi thảm của dân tộc, đất nước đổi thay từ chế độ phong kiến thực dân sang độc tài cộng sản.

Mong rằng, thế hệ cháu con tiếp nối ý chí của ông, bằng không thì dân tộc Việt khó vượt ra được vũng lầy suy thoái do chế độ CS tạo ra như hiện nay!


No comments:

Post a Comment