Kính thưa quý thính giả,
Một người có tấm lòng yêu nước thiết
tha, tin tưởng vào triển vọng canh tân, đặt hy vọng vào thế hệ trẻ được đào tạo
để làm mạnh thế nước... Tuy chưa có ý thay thế chế độ phong kiến bằng một thể
chế dân chủ vì tình hình đất nước, nhưng tư tưởng của ông giống như tư tưởng
tiến hóa của phương Tây. Ông nhìn xa thấy rộng, có khả năng
ứng dụng vào thực tế, nhưng tiếc thay, ông "sinh bất phùng thời" nên
chỉ đóng vai trò "làm chứng nhân cho
vận mệnh của đất nước".
Trong
tiết mục “Danh nhân nước Việt” tuần này, chúng tôi xin gửi đến quý thính giả
bài “Nguyễn Trường Tộ, nhà cải
cách xã hội” của Việt Thái qua giọng đọc của Minh Nguyệt để chấm dứt chương
trình phát thanh tối hôm nay.
Nguyễn Trường Tộ sinh năm 1830, sống trong một gia đình
theo đạo Công Giáo nhiều đời ở làng Bùi Chu, huyện Hưng Nguyên,
tỉnh Nghệ An.
Thân phụ ông là Nguyễn Quốc Thư. Thuở thiếu thời, Nguyễn Trường Tộ học chữ Hán
với cha và thầy Tú Giai, Cống Hữu và quan huyện Địa Linh.
Ông thông minh, học giỏi, nên được gọi
là "Trạng Tộ". Sau khi nghỉ học, ông mở trường dạy chữ Hán tại nhà và
được mời dạy tại Xã Đoài. Tại đây, ông được Giám mục
người Pháp tên là Gauthier dạy tiếng Pháp
và các môn khoa học thực nghiệm của Tây phương.
Đầu năm 1859, Giám mục Gauthier
giới thiệu ông làm việc ở Hồng Kông.
Sau khi nghỉ việc, ông dồn hết tâm trí vào việc thảo kế hoạch giúp nước. Nhờ
hiểu biết sâu rộng về phương diện chính trị,
kinh tế,
văn hóa
và khoa học kỹ thuật nên đầu tháng 5
năm 1863,
ông thảo xong 3 bản điều trần có tên là "Tế
cấp luận", "Giáo môn
luận" và "Thiên hạ phân hợp
đại thế luận" gửi lên triều đình nhà Nguyễn ở Huế.
Ngoài ra, ông còn thảo thêm bài "Trần tình" để giải bày tâm tư
và hoàn cảnh của mình, vì sợ triều đình nghi ngờ ông làm việc cho Pháp.
Trong thời gian phái bộ của cụ Phan Thanh Giản ở Pháp về Sài Gòn chờ tàu để đi
Huế,
ông tiếp xúc với các Chánh Phó Sứ để thảo luận nhiều vấn đề liên quan đến việc
xây dựng và bảo vệ đất nước. Sau đó, ông viết "Lục lợi từ" vào tháng 6
năm 1864
gửi lên triều đình, nhưng cũng không thấy hồi âm.
Từ năm 1862 đến năm 1864, ông thiết kế và đích
thân xây cất Tu viện Dòng Thánh Phao Lô Sài Gòn. Đây là một công trình
kiến trúc theo kiểu Âu châu. Thành công này đã làm cho tiếng tăm của ông lan
rộng.
Năm 1864, ông được người Anh
mời sang dự Hội nghị Khoa học ở Anh, nhưng chưa lên đường thì bị thực dân Pháp ngăn cản.
Khoảng cuối năm 1864 đến đầu năm 1865, ông gửi liên tiếp 3
bản điều trần cho Đại thần Trần Tiễn Thành và 2 bản điều trần cho Đại thần
Phạm Phú Thứ, nhờ chuyển lên vua và triều đình.
Ngày 17/8/1866, ông cùng với Giám
mục Gauthier và Linh mục Nguyễn Điều tới Huế. Lần này, ông được vua Tự Đức
tiếp kiến trong thành nội và được nhà vua lắng nghe những đề nghị cải cách.
Tháng 10 năm 1870, ông gửi thư lên triều
đình đề nghị lập Tòa lãnh sự ở Sài Gòn và Tòa đại sứ ở Pháp để nắm tình hình
chính trị. Đầu tháng 11, ông xin được vào Nam tổ chức đánh úp
quân Pháp để thu hồi 6 tỉnh Nam Kỳ, nhân lúc nước Pháp đang thua Đức
và cuộc Cách mạng Pháp đang nổ ra.
Đầu năm 1871, ông nhận được lệnh
cấp tốc ra Huế với lý do "đưa học sinh đi Pháp", nhưng kỳ thực là để bàn
với vua Tự Đức về sách lược quân sự và ngoại giao, mà ông đã trình bày trong
các văn bản gởi cho triều đình vào cuối năm 1870. Nhưng cuối cùng triều
đình Huế không quyết định.
Sau mấy tháng sống ở Huế, vì bệnh
cũ tái phát ông trở về Xã Đoài, đến ngày 22/11/1871, ông từ trần vì bệnh
xuất huyết bao tử, hưởng dương 41 tuổi, ông được an táng tại thôn Bùi
Chu. Mộ ông được làm bằng đá cẩm thạch trên một gò đất cao giữa cánh đồng rộng.
Để ghi nhớ công lao của ông, nhiều
con đường và trường học được đặt tên Nguyễn Trường Tộ.
Con ông là Nguyễn Trường Cửu, trong
bài “Sự tích ông Nguyễn Trường Tộ” đã viết ngắn gọn rằng: "Qua
năm sau, Tự Đức thứ 24, ngày 10 tháng 10,
ông Nguyễn Trường Tộ làm 2 câu thơ trước khi qua đời: "Nhất thất túc thành
thiên cổ hận, Tái hồi đầu thị bách niên cơ." Có nghĩa là: Lỡ một bước
thành muôn kiếp hận, nhìn trở lại nghiệp ấy trăm năm.
***
Có thể nói rằng, trong giai đoạn bị
thực dân Pháp đô hộ và sự hủ bại của triều đình nhà Nguyễn kéo dài hơn 80 năm, nước
Việt đã sản sinh ra nhiều nhà thông thái về đủ mọi lãnh vực, trong đó có Nguyễn
Trường Tộ. Ông không chỉ là một nhà trí thức, mà còn là người có tấm lòng với
đất nước, khát khao đưa dân tộc theo đà tiến hóa của nhân loại qua 58 bản điều
trần. Nhưng tiếc thay, cũng như nhiều bậc tiền bối khác, ông đã không cải biến
được vận mệnh bi thảm của dân tộc, đất nước đổi thay từ chế độ phong kiến thực
dân sang độc tài cộng sản.
Mong rằng, thế hệ cháu con tiếp nối
ý chí của ông, bằng không thì dân tộc Việt khó vượt ra được vũng lầy suy thoái do
chế độ CS tạo ra như hiện nay!
No comments:
Post a Comment