Kính thưa quý thính giả,
Lịch sử Việt Nam
ghi lại, một vị tướng văn võ song toàn có công lớn trong việc trấn giữ
biên cương phía Nam và chinh phạt Chân Lạp, lập nên chủ quyền vùng đất mới ở miền Nam trong công cuộc Nam tiến của
chúa Nguyễn.
Trong tiết mục
“Danh nhân nước Việt” tuần này, chúng tôi xin gửi đến quý thính giả
bài “Đại học sĩ Nguyễn Cư Trinh” của Việt Thái
qua giọng đọc của Minh Nguyệt để chấm dứt chương trình phát
thanh tối hôm nay.
Nguyễn Cư
Trinh, sinh năm
1716 tại xã An Hòa, huyện Hương Trà, phủ Triệu Phong, tỉnh Thừa Thiên, Huế. Ông tên thật là Nguyễn Đăng Nghi, tự là Cư Trinh, xuất thân trong một gia
đình có truyền thống hiếu học, ngay từ nhỏ đã nổi tiếng là người hay chữ trong vùng. Cha ông là Nguyễn Đăng Đệ nổi tiếng về
văn chương, làm Tri huyện Minh Linh, phủ Quảng Bình, xứ Thuận Hóa.
Năm 18 tuổi, Nguyễn Cư Trinh đỗ khoa thi Hương,
được bổ làm Huấn đạo.
Năm 1740, đỗ Hương
Cống, được bổ làm Tri phủ Triệu
Phong.
Năm 1741, được cử vào Viện Văn Chức.
Năm 1744, phụ trách soạn thảo văn thư cho triều đình.
Năm
1750, giữ chức vụ Tuần phủ
Quảng Ngãi.
Năm
1753, được bổ làm Ký Lục dinh Bố Chính (Quảng
Bình), kiêm Tào Vận Sứ cùng Thống suất Thiện Chính dẫn quân đi thu
phục Chân Lạp.
Khi đến Quảng Ngãi giữ chức Tuần Phủ, ông đã làm tập
thơ chữ Nôm tên Sãi Vãi
phổ biến rộng rãi nhằm khích lệ tinh thần binh sĩ. Dân quân
cùng nhau hăng hái lập đồn điền,
tăng gia sản xuất, canh phòng cẩn mật ở
các nơi trọng yếu và thực hiện chính sách kinh tế quốc phòng. Do đó, giặc cướp
không thể phát triển nên phải kéo nhau ra đầu
hàng. Ông không giam cầm mà tha
cho về quê, tạo công ăn việc làm để sinh sống khiến cả triều đình nhà Nguyễn
khâm phục tài ba và đức độ của ông.
Từ năm 1753 đến năm 1765, ông đóng góp nhiều công
lao to lớn khi trấn giữ biên cương phía Nam cho chúa
Nguyễn, chinh phạt Chân Lạp khiến Quốc vương Nặc Nguyên thua
trận, dâng 2 phủ Tầm Bôn và Lôi Lạt để tạ tội. Trong cuộc chiến này, ông dâng
sớ bày kế tằm ăn dâu, khuyên
Chúa Nguyễn nhận 2 phủ mới, cho người Côn Man được định cư
tại vùng biên giới Việt - Chân để ngăn chặn quân Chân Lạp trở lại gây hấn.
Trong thời gian ở miền Nam, ông chú trọng việc yên dân,
thực hiện chính sách mở mang đất đai, tổ chức cơ cấu hành chính phù hợp với
tình hình mới, bài trừ nạn trộm cướp, giúp đỡ và khuyến khích dân chúng khai khẩn
đất hoang, ổn định đời sống, đồng thời gìn giữ luật pháp. Ông thường xuyên giao tiếp với Mạc Thiên Tích ở Hà Tiên, họa thơ với các danh sĩ trong nhóm Chiêu Anh
Các khiến họ Mạc nể phục và kính trọng các chúa Nguyễn tại Phú Xuân.
Năm 1765, ông được chúa Nguyễn Phúc Thuần gọi về kinh giữ chức vụ ở bộ Lại.
Năm 1767, ông qua
đời vì bạo bệnh, hưởng dương 51
tuổi. Được truy tặng Tá lý Công thần, Vinh Lộc đại phu. Về sau, vua Minh Mạng truy tặng là Khai quốc Công thần, Hiệp biện Đại học sĩ, phong tước
Tân Minh Hầu, cho thờ phượng ở Thái Miếu.
Ở Thái Miếu (Huế), bên trái là Tả Tòng Tự, nơi thờ các vị công thần thuộc dòng dõi
Tôn thất. Bên phía phải là Hữu Tòng Tự, nơi thờ các vị công thần xuất thân từ
hàng dân dã. Ở Hữu Tòng Tự có 7 bài vị, bài vị của ông ở vị trí thứ 6, liền kề với bài vị tướng
Nguyễn Hữu Dật. Như vậy, thời Võ vương Nguyễn Phúc Khoát chỉ có Nguyễn Cư Trinh là được
thờ ở Thái Miếu. Tên của ông cũng được đặt cho nhiều đường phố và trường học ở Việt Nam.
*****
Học giả Vương Hồng Sển viết về Nguyễn Cư
Trinh, một vị tướng văn võ toàn tài, đã không tiếc lời ca tụng ông là người
có công mở mang bờ cõi: “Nguyễn Cư
Trinh rất có công về cuộc phòng thủ lâu dài. Ông giỏi phương
pháp "dĩ địch chế địch" bố trí người Côn
Man thủ Tây Ninh và Hồng Ngự...Về mặt thủy đạo, ông sai lập đồn 2 bên sông Cửu Long gần
biên giới để làm hậu thuẫn. Ông rất giàu sáng kiến, lo tổ chức
an ninh vùng đất mới, bảo đảm việc thông thương
buôn bán trên vùng rạch hồ...”.
Công
tâm mà nói, nếu gạt bỏ định kiến về cuộc phân chia đất nước dưới thời Trịnh -
Nguyễn phân tranh, thì trong vòng 100 năm đó, các chúa Nguyễn đã có công rất
lớn khi mở mang bờ cõi, có được một miền Nam trù phú. Một trong những công thần
đã đóng góp công sức nhiều nhất là Đại học sĩ Nguyễn Cư Trinh.
Ông
không chỉ là một vị tướng quân lỗi lạc mà còn là một vị quan tài đức vẹn toàn.
Binh pháp có câu "chiếm thành thì dễ, giữ thành rất khó". Thế
nhưng, Nguyễn Cư Trinh không chỉ giữ thành, giữ đất mà còn mang lại một đời
sống ấm no và thanh bình cho những lưu dân khai khẩn vùng đất Chân Lạp vừa
chiếm được.
Với
công trạng to lớn đó, so với Tập đoàn Cộng Sản VN hèn hạ nhẫn tâm dâng hiến sơn
hà xã tắc cho Tàu Cộng phương Bắc, thì Đại học sĩ Nguyễn Cư Trinh không những xứng
đáng được thờ phượng trong Thái Miếu, mà còn xứng đáng được dựng tượng tại miền
Nam để nhắc nhớ công đức của người, thay vì xây tượng Hồ Chí Minh, một tội đồ
đã mang chủ nghĩa ngoại lai về tàn hại đất nước.
No comments:
Post a Comment