Sự vắng bóng một nền báo chí của tư nhân và do tư nhân điều hành nói lên bản chất bảo thủ và độc tài của đảng CSVN.
Mời quý thính giả đài ĐLSN nghe phần Bình Luận của Hiền Lương với tựa đề: “Tự do báo chí: Giấc mộng dài của người Việt suốt gần nửa thế kỷ” sẽ được Song Thập trình bày để kết thúc chương trình phát thanh tối hôm nay.
Mời quý thính giả đài ĐLSN nghe phần Bình Luận của Hiền Lương với tựa đề: “Tự do báo chí: Giấc mộng dài của người Việt suốt gần nửa thế kỷ” sẽ được Song Thập trình bày để kết thúc chương trình phát thanh tối hôm nay.
Theo đề nghị của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp
Quốc, ngày 20-12-1993, Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc đã công bố ngày 3
tháng 5 là “Ngày Tự do Báo chí thế giới” với Nghị quyết số 48/432, nhằm
để nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của tự do báo chí, và nhắc nhở
các chánh phủ về bổn phận phải tôn trọng và duy trì quyền tự do ngôn
luận theo Điều 19 của Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, và đánh dấu ngày kỷ
niệm Tuyên ngôn Windhoek, một tuyên ngôn về những nguyên tắc tự do báo
chí do các nhà báo châu Phi đưa ra năm 1991.
Trong bài viết đăng trên tạp chí Cộng Sản – cơ quan lý luận chính trị
của Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, với tựa đề “Tránh
‘bẫy tự do báo chí’ trong thời kỳ hội nhập quốc tế”, có đoạn viết:
“Giăng chiếc “bẫy tự do báo chí”, các thế lực thù địch rêu rao chúng ta
không cho phép báo chí tư nhân là không có tự do ngôn luận, tự do báo
chí.
Chúng lợi dụng các vụ, việc một số nhà báo có hành vi vi phạm pháp
luật và đạo đức người làm báo bị xử lý để cho rằng tự do ngôn luận, tự
do báo chí ở Việt Nam bị hạn chế… Để đối phó với thực tế này và trong
bối cảnh thông tin đa chiều, đặc biệt là khi người đọc không phải tìm
kiếm mà thông tin được chủ động đưa đến cho người đọc (thậm chí người
đọc phải tiếp nhận thông tin một cách bị động – bị gửi vào facebook,
zalo, viber…) thì việc cung cấp những nguồn tin chính xác, kịp thời cho
báo chí chính là cách thức nhanh nhất, hiệu quả nhất để định hướng và
quản lý thông tin.
Thời gian qua, Đảng, Nhà nước đã áp dụng phương pháp quản lý vừa
thuyết phục, nhắc nhở, vừa cưỡng chế bằng các chế tài, công cụ pháp
luật.
Trong bài báo kể trên, tái xác nhận là ở Việt Nam không có báo chí tư
nhân, và tái khẳng định thông tin trên báo chí ở Việt Nam là có “định
hướng”.
Nếu đánh giá về quyền “tự do báo chí” từ Luật Báo chí hiện hành ở
Việt Nam, cho thấy khá rõ về những cách hiểu ‘tự do’ của nhà nước Việt
Nam so với thế giới (ngoại trừ Trung Quốc, Triều Tiên).
Luật Báo chí Việt Nam có quy định “Không ai được lạm dụng quyền tự do
báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà
nước, tổ chức và công dân” – điều 13.2.
Điều luật 13 là không ổn, vì nó mâu thuẫn với quy định về trách nhiệm
của Nhà nước đối với quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên
báo chí. Cụ thể là ở nội dung thứ nhất: “nhà báo hoạt động trong khuôn
khổ pháp luật và được Nhà nước bảo hộ”. Điều khoản đó có nghĩa nếu phóng
viên, biên tập viên chưa được cấp thẻ nhà báo tuy hoạt động trong khuôn
khổ pháp luật song có thể không được Nhà nước bảo hộ. Nội dung này có
vẻ mang tính răn đe và ban phát không cần thiết và không thấy được trách
nhiệm phải có của Nhà nước.
Ở nội dung thứ hai, “không ai được lạm dụng quyền tự do báo chí,
quyền tự do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, tổ
chức và công dân” thì nội dung này hoặc là thừa, hoặc đã được đặt không
đúng chỗ, thậm chí còn có vẻ răn đe không cần thiết. Vì trong điều 9 quy
định về “Các hành vi bị cấm” trong hoạt động báo chí, đã đề cập vấn đề
này.
Tuy nhiên nếu nhìn từ Hiến pháp năm 2013, về việc đã quy định những
quyền cơ bản, trong đó có quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận, thì mục
đích trước hết của một đạo luật về báo chí, là nhằm bảo đảm cho mọi
người có quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận đã được ghi nhận trong
Hiến pháp năm 2013. Do vậy, đối tượng chế tài của nó là Nhà nước; nó
buộc Nhà nước phải bảo đảm quyền tự do báo chí, thể hiện bằng những quy
định cụ thể trong Luật Báo chí.
Nếu Nhà nước hay bất kỳ chủ thể nào trong các chính sách, pháp luật
hay hành động cụ thể của mình trong thực tế không bảo đảm quyền tự do
báo chí thì Nhà nước, chủ thể đó đã vi phạm luật, vi phạm Hiến pháp và
phải chịu chế tài.
Cho nên, cách gọi tên đúng nhất phải là “Luật về Quyền tự do báo
chí”. Trong khi đó thì Luật Báo chí về nguyên tắc thể hiện một cách
hiểu, và do đó là một cách làm hoàn toàn ngược lại. Đối tượng chế tài
của một đạo luật mang tên như vậy sẽ là nhân dân, và đó sẽ là một đạo
luật của Nhà nước, để cho Nhà nước nắm lấy mà cai trị dân về mặt báo
chí. Đạo luật đó sẽ nhằm bảo đảm quyền tự do báo chí của Nhà nước chứ
không phải của dân. Một Nhà nước nắm luật đó sẽ có quyền cho phép người
dân được tự do về mặt báo chí đến đâu, tức ngược với tinh thần của Hiến
pháp.
Và với cách hiểu ở trên góp phần giải thích vì sao là thành viên Liên
Hiệp Quốc, song Nhà nước Việt Nam không hề hưởng ứng Ngày Tự do Báo chí
thế giới, mồng 3 tháng 5 hàng năm./.
Hiền Lương
No comments:
Post a Comment