Vụ án Hồ Duy Hải chứng minh một cách hùng hồn rằng pháp chế xã hội chủ nghĩa mà TBT Nguyễn Phú Trọng rêu rao chỉ là luật rừng man rợ. Mời quý thính giả đài nghe phần Bình Luận của Đào Tăng Dực với tựa đề: “Hồ Duy Hải và thân phận người dân Việt Nam dưới Pháp Chế Xã Hội Chủ Nghĩa” sẽ được Song Thập trình bày để kết thúc chương trình phát thanh tối hôm nay.
Lý do chúng ta chú tâm nhiều đến vụ án này, ngoài tính nghiêm trọng
của nó vì liên quan đến tội cố sát và án tử hình, là vì những vi phạm
không những các nguyên tắc luật pháp bình thường tại các quốc gia dân
chủ, mà nó còn vi phạm ngay cả những thủ tục pháp lý của pháp chế xã hội
chủ nghĩa tại Việt Nam nữa.
Một cách tổng quát Tòa Án Nhân Dân Tối Cao, trong phiên xử ngày 8
tháng 5, 2020 đã vi phạm trầm trọng những nguyên tắc pháp lý nền tảng
sau đây:
- Các khái niệm “giả định vô tội”và “trách nhiệm chứng minh”:
Một bị cáo tự thể được giả định là vô tội và trách nhiệm chứng minh
hầu kết án về hình sự là trách nhiệm của Công Tố Viện, trong trường hợp
của Việt Nam là Viện Kiểm Sát Tối Cao Nhân Dân, không phải trách nhiệm
của bị cáo.
Tuy bị cáo có thể nêu ra chứng cớ phản bác những chứng cớ của Viện
Kiểm Sát và chứng minh sự vô tội của mình, nhưng chỉ cần VKS bày tỏ nghi
vấn về phẩm chất của chứng cứ đã trình tòa, hoặc minh thị rút lại chứng
cứ như đã xảy ra ngày 22 tháng 11, 2019, thì nguyên tắc “giả định vô
tội” lập tức được kích hoạt và ông Nguyễn Hòa Bình cũng như 16 vị thẩm
phán TANDTC còn lại không có sự chọn lựa nào ngoài chấp nhận kháng nghị
của VKS, hủy bỏ bản án, tái điều tra và tái xử hoặc tuyên bố HDH vô tội.
- Khái niệm “Cấp độ chứng minh”:
Vấn đề chứng cứ trong một phiên tòa, dù là những phiên tòa dân sự hay
hình sự cũng vô cùng quan trọng, nhất là về hình sự thì lại càng nghiêm
khắc hơn.
Phiên xử HDH cho thấy nhiều khuyết điểm về chứng cứ như:
- Thay đổi vật chứng;
- Bỏ sót các chứng cứ pháp y như vân tay, vết máu tại hiện trường;
- Bỏ qua một số bản khai cung không nhận tội của bị cáo;
- Sự hiện hữu của nhiều nghi can khác…
Trong hệ thống hình sự Common Law như tại Anh Quốc và Hoa Kỳ thì cấp
độ chứng minh vô cùng nghiêm khắc. Trong một phiên tòa hình sự thì cấp
độ chứng minh phải là “Không còn lý do chính đáng để nghi ngờ” (Beyond
Reasonable Doubt) có nghĩa hầu như xác suất là 90% hay hơn nữa.
Hệ thống tư pháp Civil Code tại Pháp và Âu Châu, trong hình sự, cấp
độ chứng minh phải thuyết phục quan tòa đến mức độ một sự “sự thuyết
phục thâm tâm” trước khi phán quyết. Ý niệm “thuyết phục thâm tâm” này
buộc quan tòa phải xét đến tất cả mọi chứng cứ từ lời nói, văn kiện,
khoa học, tâm lý, v.v… và quyết định trong khi ý thức hoàn toàn tính chủ
quan của chính vị thẩm phán.
Chính vì thế, nếu đứng trước một pháp đình nghiêm chỉnh trong truyền
thống Common Law lẫn Civil Code, HDH đều vô tội vì những chứng cứ nhiều
khuyết điểm như thế sẽ không đủ sức thuyết phục một Bồi Thẩm Đoàn tại
Anh Quốc hay Hoa Kỳ và cũng sẽ không thể thuyết phục một Thẩm Phán hay
Thẩm Phán Đoàn tại Pháp đến cấp độ hình sự và HDH sẽ được tuyên bố vô
tội tại cả 2 pháp đình.
- Khái niệm “xung đột quyền lợi”:
Đây là một khái niệm then chốt của công lý nhân loại đương đại, phát
xuất từ một phiên tòa tại Anh Quốc năm 1924 và xuất xứ của một câu châm
ngôn lừng danh trong giới luật sư và thẩm phán thời đại.
Đó là câu: “Justice must not only be done, but must be seen to be
done” dịch ra tiếng Việt là “Công lý không những phải được thực thi, mà
phải làm sao cho mọi người nhìn thấy nó được thực thi” của Chánh Thẩm
Phán Lord Chief Justice Hewart trong phiên xử R v Sessex Justices, ex
parte McCarthy, năm 1924.
Phiên xử này quy định những nguyên tắc nền tảng liên hệ đến tính vô
tư và sự vắng mặt cần thiết của các thẩm phán khi có xung đột quyền lợi.
Khi nguyên tắc này áp dụng cho HDH thì 2 sự kiện:
- Một là ông Nguyễn Hòa Bình vào năm 2011 làmViện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và đã quyết định không kháng nghị vụ án và
- Hai là ông ngang nhiên trở thành Chánh Thẩm Phán trong phiên xử ngày 8 tháng 5, 2020
đã vi phạm trầm trọng nguyên tắc “xung đột quyền lợi” vô cùng hiển
nhiên và cũng vì thế sự phán xét của tòa bị hoen ố toàn diện khi ông làm
chánh thẩm.
- Tương quan nghiêm chỉnh giữa Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự (BLTTHS) và Bộ Luật Hình Sự (BLHS).
Một trong những lập luận rất lạ lùng của Tòa Án Nhân Dân Tối Cao là những
vi phạm pháp luật liên hệ đến Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự của công an điều
tra, không làm thay đổi kết quả xử án, nên không cần thiết phải hủy các
bản án sơ thẩm, phúc thẩm để điều tra lại theo kháng nghị của Viện
trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.
Tương quan giữa BLTTHS và BLHS không chỉ là một tương quan có tính
phương tiện và cứu cánh (means and end), mà còn là một tương quan có
tính nhân quả. Một khi “nhân” là những chứng cớ bị hoen ố vì vi phạm
luật thủ tục tố tụng thì “quả” là bản án chiếu theo BLHS sẽ bị hoen ố
tương tự.
Lập luận nêu trên của 17 vị thẩm phán là lập luận cố hữu của các đảng
viên CS giáo điều tức “cứu cánh biện minh cho phương tiện”. Vì họ đã cả
quyết HDH là có tội thì BLTTHS chỉ là một phương tiện, nếu không cần
thiết thì vứt đi, vì mục tiêu đã đạt được.
Tại sao những quan tòa tối cao của đất nước lại có thể quan niệm về luật pháp lạ lùng như thế?
Câu trả lời đơn giản là dưới trật tự chính trị Mác Lê và pháp chế xã
hội chủ nghĩa, các thẩm phán, thay vì là những luật gia uyên bác và vô
tư thì chỉ là những đảng viên thuộc các phe nhóm, được gài ghép vào
những vị trí hầu ban thưởng hoặc củng cố quyền lực, hoàn toàn không đủ
phẩm chất của những thẩm phán nghiêm chỉnh như tại các quốc gia pháp trị
nghiêm minh.
Ngay cả trong trường hợp Hồ Duy Hải được tái thẩm đúng theo công lý
hoặc phán xét vô tội, thì số phận của nhân dân Việt vẫn không được cải
thiện, trừ khi một hệ thống pháp lý nghiêm chỉnh được hình thành tại
Việt Nam trong phạm trù của một nền dân chủ hiến định, pháp trị và đa
nguyên chân chính.
No comments:
Post a Comment