Kính thưa quý thính giả, lịch sử cận đại VN ghi nhận một nhà văn, nhà báo có tấm lòng yêu nước, chuyên viết tiểu thuyết và kịch ngắn.
Với tấm lòng nhân bản, các tác phẩm của ông luôn chú trọng đến việc xây dựng nhân cách, nâng cao giá trị đạo đức xã
hội, cá nhân và gia đình. Ông cũng chủ trương cải cách xã hội VN theo đà văn minh
của nhân loại, kêu gọi bài trừ các hủ tục, đề cao tình yêu tự do,
chống lại các lễ giáo phong kiến. Điều bi thảm là sau
đó, ông bị Việt Minh bắt giữ tại Liên khu 3 và bị xử tử tại bến đò Cựa Gà, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định.
Qua chuyên mục Danh Nhân Nước Việt
tuần này, chúng tôi xin gửi đến quý thính giả bài “Nhà Văn Khái Hưng” của Việt Thái qua giọng đọc của Tam Thanh để kết thúc chương trình phát
thanh tối hôm nay.
Lòng ta chôn một khối tình,
Tình trong giây phút mà thành thiên thu.
Tình tuyệt vọng, nỗi thảm sầu,
Mà người gieo thảm như hầu không hay.
Đó là 4 câu thơ rất nổi tiếng trong bài Tình tuyệt vọng của thi sĩ người Pháp tên Félix Arvers do Khái Hưng phỏng dịch.
Khái Hưng tên thật là Trần
Khánh Giư. Bút hiệu Khái Hưng của ông được lắp ghép lại từ các chữ cái của tên Khánh Giư.
Khái Hưng sinh năm 1896, xuất thân từ một gia đình quan lại ở xã Cổ
Am, huyện Vĩnh Bảo, Hải Dương, nay thuộc Hải Phòng.
Cha ông giữ chức Tuần phủ, và cha vợ ông là Lê Văn Đinh giữ chức Tổng đốc Bắc Ninh.
Khái Hưng theo học trường Albert Sarraut. Sau
khi đỗ tú tài
I, vì không muốn làm công chức, ông về Ninh Giang
mở đại lý bán dầu hỏa. Sau đó lên Hà Nội
dạy ở trường tư thục Thăng
Long. Trong khoảng thời gian 1930 đến 1932, nhà văn Nhất Linh từ Pháp
về nước và cũng dạy tại trường này. Chính ở
ngôi trường này, Khái Hưng kết bạn với Nhất Linh và trở thành một cặp
tác giả nổi tiếng qua các truyện ngắn đăng trên nhiều tờ báo thời đó. Tuy Khái Hưng hơn Nhất Linh 9 tuổi nhưng là người
bước vào văn đàn sau Nhất Linh nên còn được gọi là Nhị
Linh.
Sau đó Khái Hưng
tham gia nhóm Tự Lực Văn Đoàn do Nhất Linh thành lập. Văn
đoàn này xuất hiện công khai từ 1932, đến đầu năm 1933 thì tuyên bố chính thức thành lập với 3 thành viên trụ
cột là Nhất Linh, Khái Hưng và Hoàng Đạo.
Sau đó Tự Lực Văn
Đoàn ra tờ báo Phong Hóa và khi tờ này bị thực dân Pháp đóng cửa thì
tờ Ngày Nay ra đời để thay thế. Cùng
với tờ báo, Tự Lực
Văn Đoàn cũng có nhà xuất
bản Đời Nay để in ấn các tác phẩm.
Là một trong những cây viết trụ cột của nhóm,
tiểu thuyết đầu tay của Khái Hưng là cuốn Hồn bướm mơ tiên (1933), và cũng là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Tự Lực Văn Đoàn. Cuốn tiểu thuyết cuối cùng của Khái Hưng là Thanh
Đức (1943) và cũng là cuốn tiểu thuyết cuối cùng của nhóm Tự Lực Văn Đoàn.
Khái Hưng cũng viết chung với Nhất Linh hai tiểu thuyết
là Gánh hàng hoa và Đời mưa gió và ra đời chung tập truyện ngắn Anh
phải sống cùng năm 1934.
Giống như các cuốn tiểu thuyết khác của Tự Lực Văn Đoàn khác, tác phẩm của Khái Hưng thường đề
cao tình yêu tự do, chống lại các lễ giáo phong kiến,
ít nhiều mang tính cải cách xã hội. Khái Hưng cũng viết một số vở kịch ngắn.
Trong những năm 1935
đến 1940,
Khái Hưng là nhà văn được nhiều thanh niên thành thị ái mộ nhất.
Trong thời gian Đệ nhị Thế chiến,
giống như Nhất Linh – Nguyễn Tường Tam, Khái Hưng cũng tham gia hoạt động chính trị khi tham gia Đại Việt Dân Chính Đảng, một đảng phái thân Nhật, vì thế ông bị nhà cầm quyền thực dân Pháp bắt giam. Đến năm 1945, sau ngày Nhật đảo chính Pháp, Khái Hưng được trả tự do. Ông
cùng Hoàng Đạo, Nguyễn Tường Bách cho ra
tờ Ngày Nay Kỷ Nguyên Mới và viết một loạt bài báo, truyện
ngắn, kịch ngắn trên các tờ báo của Việt Nam Quốc Dân Đảng.
Theo lời kể của ông Nguyễn Tường Triệu, con nuôi của Khái Hưng, thì vào ngày
22/1/1947, Khái Hưng bị Việt Minh
bắt giam tại Liên khu 3 (Lạc Quần,
Trực Ninh)
và sau đó bị xử tử tại bến đò Cựa Gà, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định.
Khái Hưng là một trong những người bị thanh toán trong
chiến dịch loại bỏ các đảng phái khác của đảng cộng sản VN trong thời gian
kháng chiến chống Pháp.
* * *
Sau năm 1954, cả miền Bắc hầu như không ai dám nhắc đến
cái tên Tự Lực Văn Đoàn, chứ nói chi đến nhà văn nổi tiếng là Khái Hưng. Thế
nhưng tại miền Nam, dưới thời đệ nhất và đệ nhị cộng hòa, các tác phẩm được tái
bản của ông luôn bán rất chạy, thậm chí được dùng làm sách giảng dạy trong môn
Việt văn. Và trong sách giáo khoa ở bậc trung học đệ nhất cấp cũng không thiếu
vắng những truyện ngắn đầy xúc động của Khái Hưng, một trong những nhà văn đã
đóng góp vào tiến trình phong phú hóa tiếng Việt trong giai đoạn chuyển mình
của đất nước.
Chắc chắn những ai theo học dưới mái trường của Việt
Nam Cộng Hòa đều phải biết đến, và không sao quên được truyện ngắn có tựa đề Anh phải sống của nhà văn Khái Hưng,
diễn tả quyết định đầy thương tâm của người vợ khi buông tay cho dòng nước lũ
cuốn trôi với lời nhắn nhủ người chồng phải sống để nuôi hai đứa con thơ dại,
thay vì chọn chết chung với vợ.
Người ta tin rằng, với văn tài của ông, nếu không bị
cộng sản thủ tiêu, và nếu di cư được vào miền Nam sau năm 1954, nhà văn Khái
Hưng sẽ có thêm những cuốn tiểu thuyết xuất sắc không kém gì cuốn Hồn Bướm Mơ Tiên hay Tiêu Sơn tráng sĩ.
Chính vì thế, việc thủ tiêu nhà văn Khái Hưng là một
trong những tội ác mà “trời không dung, đất không tha” của đảng cộng
sản VN. Và cho dù người cộng sản nỗ lực vùi dập suốt 70 năm qua, cái tên Tự lực
Văn Đoàn nói chung, và Khái Hưng nói riêng, vẫn mãi mãi được nhiều người Việt
nhắc nhở đến. Lý do là vì nhà văn Khái Hưng không chỉ nổi tiếng trên văn đàn VN
trước thời tiền chiến, mà còn lừng lững đi vào lịch sử cận đại qua việc dấn
thân tranh đấu để giành lại nền tự chủ của một dân tộc vốn tự hào có “Bốn
ngàn năm văn hiến”.
No comments:
Post a Comment