Kính thưa quý thính giả, sách sử Việt ghi nhận, một trong những vị quan cấp tiến,
có tinh thần canh tân về ngoại giao và khai hoang lấn biển.
Rấc tiếc, ông mất sớm, để lại những chương trình “kinh bang tế
thế” dở dang, làm mất đi cơ hội chấn hưng đất nước. Qua chuyên mục Danh Nhân Nước Việt
tuần này, chúng tôi xin gửi đến quý thính giả bài “Danh Sĩ Bùi Viện” của Việt Thái qua giọng đọc của Minh Nguyệt để kết thúc chương trình
phát thanh tối hôm nay.
Bùi Viện hiệu là Mạnh Dực, sinh năm 1841, ở làng Trình Phố, huyện Trực Định, phủ Kiến Xương, tỉnh Nam Định
(nay thuộc xã An Ninh, huyện Tiền Hải,
tỉnh Thái Bình).
Xuất thân trong một gia đình nho học,
ông và em trai là Bùi Phủng đều nối nghiệp nhà, nhưng lận đận trường
thi, mãi đến năm Tự Đức thứ 21 (năm 1868) Bùi Viện mới đỗ Cử
nhân và giúp việc cho Tham tri Lê Tuấn.
Tháng 5/1871, Thượng thư Bộ hình Lê Tuấn
được vua Tự Đức cử làm Khâm phái Thị sư ra thanh tra công cuộc đánh dẹp
loạn Cờ đen, Cờ vàng quấy rối ở miền Bắc. Thượng thư Lê Tuấn chọn Bùi
Viện theo phò tá. Sau khi thành công, Bùi Viện theo Thượng thư Lê Tuấn
trở lại Huế.
Ít lâu sau, Bùi Viện được điều động ra giúp Phạm Phú Thứ, Tổng đốc Hải Yên, trong việc bố phòng ven biển Hải Dương. Với
200 quân cùng lương thực, ông đã xây dựng một số cơ sở và công sự cho
bến Ninh Hải, tức nền móng cho sự phát triển thành cảng Hải
Phòng sau này.
Sau 10 tháng chỉ huy xây dựng bến Ninh Hải,
Bùi Viện phải bàn giao việc này cho người khác, để theo Doãn Khuê,
Doanh điền sứ Nam Định ra giúp việc khai hoang lấn biển, lập cảng phòng vệ
duyên hải và giao thương với nước ngoài.
Khi vừa hoàn thành nhiệm vụ, ông được lệnh dẫn quân đi dẹp loạn
Quảng Văn Tề ở Quảng Yên. Dẹp tan loạn Tề, ông được triều đình giao
nhiệm vụ lập ra thủy quân để tuần tiễu vùng
duyên hải, trấn áp hải tặc để bảo
vệ ngư dân, thu thuế tàu buôn nước ngoài và ngăn chặn giặc ngoại xâm đến
từ biển đổ bộ lên đất liền. Ông cho đóng 200 chiến thuyền, chiêu mộ và
đào tạo 2000 thủy quân thiện chiến gọi là Tuần Dương Quân. Ông cũng lập
ra hệ thống thương điếm ở khắp các tỉnh ven biển.
Với tấm lòng yêu nước, ông cùng Hoàng Phan Thái, Nguyễn Tư
Giãn, Đặng Đức Thuận, Nguyễn Trường Tộ thành lập Tân đảng, khuyến cáo triều
đình nên duy tân và cải cách chính trị, quân sự và văn hóa.
Ngày 1 tháng 11 năm Mậu Dần (1878) ông qua đời khi tâm nguyện
duy tân chưa thành. Ông được vua Tự Đức và triều đình thương tiếc, đặc biệt là
dân chúng các vùng ven biển nơi ông khai phá luôn nhớ ơn và ca tụng công đức của
ông.
Bùi Viện chính là người tiếp nối chủ trương khai hoang, lấn biển từ
nữ tướng Lê Chân của thời Trưng vương. Tướng Lê Chân thời ấy đã vừa
chiến đấu chống lại Thái thú Tô Định của nhà Hán, vừa xuôi
về vùng sông Cấm, khai hoang lấn biển lập nên “Hải Tần Phòng” từ những
năm 40 sau Công Nguyên. Từ Hải Tần Phòng, Bà đã mang nghĩa quân tham gia
cuộc
khởi nghĩa của Hai Bà Trưng đánh đuổi Tô Định. Sau bà Lê Chân, tiếp nối bao đời,
bao triều đại, mảnh đất An Biên này tiếp tục được khai hoang và lấn biển.
****
Đất An Biên là vùng đất mà nông dân Đoàn Văn Vươn và gia đình đã nối
tiếp chí hướng mở mang bờ cõi của nữ tướng Lê Chân và cử nhân
Bùi Viện, đổ mồ hôi
nước mắt lẫn cả xương máu để lấn biển làm đầm nuôi tôm cá ở đầm Cống
Rộc. Thế nhưng, khi cơ nghiệp đã thành, bắt đầu có huê lợi, thì bọn
cường hào ác bá cộng sản đánh cướp. Không thể ngồi nhìn gia đình lâm vào
cảnh
trắng tay, các anh em của ông Đoàn Văn Vươn đã vùng lên chống cự bằng
các vũ
khí tự chế và đã bị bạo quyền bỏ tù, san bằng nhà cửa.
Đây đúng là điều cay đắng trong sử Việt.
Mỗi khi nhắc đến triều đình nhà Nguyễn, tập đoàn cộng sản không ngớt lời chỉ
trích một cách cay nghiệt rằng, triều đình nhà Nguyễn thối nát, hủ bại, đầu
hàng thực dân Pháp. Thế nhưng triều đình này lại có công rất lớn trong việc mở
mang cõi bờ, với hàng loạt vị quan nổi tiếng như An viễn Tướng quân Nguyễn Công
Trứ và Bùi Viện.v.v. Chính nhờ các vị tiền bối này mà diện tích Hải Phòng và
Thái Bình càng ngày càng được mở rộng, với hàng chục ngàn nông dân có được ruộng
vườn, đất đai để sinh sống cũng là nhờ vào công trình đắp đê lấn biển của các vị
quan đầy nhiệt huyết đó.
Ngược lại,
sau 72 năm cai trị của tập đoàn cộng sản, lãnh thổ Việt Nam ngày càng bị
thu hẹp
sau các thỏa ước dâng đất, dâng biển cho Tàu Cộng. Hàng triệu ngư dân
đang dở sống, dở chết vì
quân Tàu cộng tràn ngập Biển Đông. Thảm họa cá chết ở vùng biển miền
Trung và hàng trăm con sông bị ô nhiễm trầm trọng vì chất độc thải
ra từ các nhà máy, hủy diệt biết bao thủy sản và hoa màu của nhiều nông
dân vốn
đã đói nghèo, nay càng thêm điêu đứng. Hàng trăm ngàn nông dân trở thành
dân
oan vì bị bọn quan lại cộng sản cướp đoạt ruộng vườn. Nếu so sánh chế độ
cộng sản
hôm nay với thời thực dân, phong kiến trước đây, có lẽ người dân chẳng
thà sống
dưới triều Nguyễn hay thời Pháp thuộc hơn là sống với chế độ cộng sản.
Ít nhất
thì họ còn có những vị quan biết thương dân thương nước như Bùi Viện,
chứ không
phải là một bè lũ cướp ngày lẫn cướp đêm, với tệ nạn tham nhũng vô
phương cứu
chữa như thực trạng xã hội Việt Nam hiện nay dưới sự cai trị của
bạo
quyền cộng sản, một chế độ đã và đang đẩy dân tộc vào một thời kỳ tối
tăm và tồi tệ chưa từng có trong lịch sử nước Việt.
No comments:
Post a Comment