Khi
được kêu nhau là đồng bào có nghĩa là toàn con dân Việt đều có chung một định mệnh,
một số phận để chia ngọt xẻ bùi trong vinh quang rạng rỡ với ý chí quật cường
quyết thắng.
Trong tiết mục Chuyện Nước Non Mình, chúng tôi
xin gửi đến quý thính giả đài ĐLSN bài viết có tựa đề: “Chung một số mệnh”
của Nguyệt Quỳnh sẽ được Bảo Trân trình bày để tiếp nối chương trình tối hôm
nay.
Để tưởng niệm cụ Lê Đình Kình một
lão nông của thôn Hoành, người mở lại cho tôi ký ức về bóng dáng của những sĩ
phu trong lịch sử VN
Nhà danh họa Leonardo Da Vinci có
câu nói nổi tiếng: “Nếu bạn gắn được lộ trình của mình lên một vì sao,
bạn sẽ có thể điều khiển được bất kỳ cơn bão nào”.
Câu nói của ông làm tôi hình dung
đến những cơn bão trong lịch sử VN, đến bóng dáng những con người đã điểu khiển
những cơn bão ấy. Họ mặc áo nâu, đi chân đất, bình dị, đơn sơ nhưng mạnh mẽ.
Cùng với họ, biết bao nhiêu triều đại, biết bao nhiêu thế hệ đã vượt buổi can
qua.
Hãy nghe về cuộc gặp gỡ của một danh
tướng và một nho sinh ở làng Hàm Châu.
Vào thế kỷ thứ 13, khi Đại Việt đang
phải đương đầu với quân Mông cổ. Một ngày nọ, Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật
tình cờ kéo quân qua làng. Đoàn quân đang đi thì gặp phải một người đứng nghênh
ngang giữa lộ. Quân lính thét la bảo tránh đường, thì người ấy quay mặt lại mà
mắng rằng: “Chưa đuổi được giặc phương Bắc mà đã đuổi người Nam thì lấy
ai mà chống giặc?”
Quân sĩ vào tâu lại. Trần Nhật Duật
bèn cho dừng quân, vời người ấy vào hỏi chuyện. Thấy là người tài đức, Chiêu
Văn Vương bèn giao cho chức vụ tham mưu trong quân ngũ; sau này lập công to làm
đến chức Lâm Vĩnh Hầu.
Người ấy là một nho sinh nghèo, sinh
trưởng ở làng Hàm Châu tên gọi là Bùi Công Nghiệp.
Dân như thế. Tướng như thế. Bảo sao
Nước không mạnh!
Cũng với tinh thần của dân ấy, tướng
ấy, người trai áo vải đất Tây Sơn đã tạo nên biết bao nhiêu kỳ tích. Mà cũng
chỉ có thể giải thích bằng câu nói của vị vua trẻ, gấp lên ngôi khi giặc đã
tràn qua biên cương: “Nước Nam ta tuy nhỏ, người lại không đông, nhưng
chứa đựng biết bao hồn thiêng sông núi. Xưa nay chưa có kẻ thù nào đến đây mà
không thảm bại. Nếu lấy trí tầm thường của kẻ phàm phu tục tử để tìm hiểu đất
thiêng này thì muôn đời vẫn u tối vậy”.
Đêm ấy là vào một đêm cuối năm, giữa
ánh lửa bập bùng của núi rừng Tam Điệp, quân Tây Sơn cùng với 10 ngàn tân binh
về tụ nghĩa ở Nghệ An. Họ đứng ngồi bên nhau, cùng lắng nghe vị vua trẻ chia sẻ
về niềm tin của mình.
Nếu nói theo các chuyên gia tâm lý
tây phương thì vua Quang Trung là một nhà truyền đạt tuyệt vời. Ông có cái khả
năng nối kết được chính mình với từng người dân, từng người lính để trao cho họ
niềm tin sắt đá của một vị thủ lĩnh. Ở một góc nhìn khác, “Hịch xuất quân” của
nhà vua đã thể hiện rõ cái nếp nghĩ của sĩ phu Việt thời ấy. Và chính cái nếp
nghĩ này mới làm nên chiến thắng.
Với quân số chỉ bằng nửa quân giặc,
lại phải kéo quân về từ xa, chuyện đánh thắng giặc chỉ có thể dựa vào quyết tâm
sắt thép – PHẢI ĐÁNH THẮNG – phải thắng để giữ cho răng đen, để giữ cho dài
tóc. Phải thắng để giữ gìn bản sắc, để mình còn được là mình. Cái tôi trong các
sĩ phu thời ấy là cái tôi của nho sinh Bùi Công Nghiệp, một cái tôi bản lĩnh mà
bất cứ một quốc gia nào cũng cần đến những công dân như thế.
Và quả nhiên, nước sông Hồng mùa
xuân năm ấy đã in dấu cuộc tháo chạy hoảng loạn của quan quân Tôn Sĩ Nghị. Quân
ta đã đánh một trận để đời – Đánh cho giặc manh giáp tả tơi, Đánh cho chúng
không còn một bánh xe để quay về Tàu. Và Đánh để chúng biết rằng nước Nam này
có chủ.
Chỉ qua một đêm, với Hịch xuất quân
ngắn gọn và những chia sẻ nhiệt thành, nhà vua và các tướng sĩ như đã thấu hiểu
lòng nhau và ngài đã lấy trọn được quyết tâm của họ. Rồi cứ thế, cứ ba người
một nhóm, họ thay phiên nhau, hai người cáng một đi suốt ngày đêm. Thượng đế
tạo ra con người thật nhỏ nhoi, nhưng con người cũng thật vĩ đại. Chính những
con người bình thường đó đã thay đổi số phận của biết bao người và thay đổi cả
lịch sử.
Vượt hẳn cả ước tính của nhà vua,
thay vì mùng mười âm lịch quân ta mới đuổi xong giặc, thì ngay ngày mùng bảy
tết, thành Thăng Long đã rợp bóng cờ Tây Sơn. Đích thân vị tướng trẻ, Đại Đô
Đốc Long đã tự tay mở cửa thành đón đại quân.
***
Tôi không rõ hết về tổn thất của
quân ta trong trận này, tôi chỉ biết được rằng có đến 8000 người đã phải hy
sinh trong trận công phá đồn Ngọc Hồi. Vinh quang và ô nhục
nó chỉ khác nhau một lằn ranh mong manh trong mỗi con người. Tôi hiểu vì sao
Leonardo Da Vinci, người được xem là “thiên tài toàn năng nhất lịch sử nhân
loại” đã khẳng định -con người có thể điều khiển được bất kỳ cơn bão nào.
Nhắc lại câu chuyện lịch sử để vuốt
mắt cho một người “cộng sản cũ” (chữ của Ts Hà Sĩ Phu). Đưa tiễn ông là tiếng
than, là suối lệ đắng chát của bằng hữu. Nó là tiếng kêu đớn đau của giống chim
ưng khóc bạn, là những người biết mình có chung một lịch sử phi thường, biết
mình đã từng mạnh mẽ ra sao, đã tan vỡ và suy sụp như thế nào.
Riêng tôi, nhắc lại câu chuyện lịch
sử, không dưng tôi cảm nhận sự gắn kết của chúng ta với nhau thật chặt chẽ, và
điều này cho tôi một cảm giác ấm áp đến rơi lệ. Mặt đất dưới bàn chân ta đi mỗi
ngày đâu chỉ là đất, nó là máu xương, là tro than của hàng bao nhiêu đời. Thảm
cỏ này, viên sỏi nọ, hòn đá kia như còn vang vọng tiếng vó ngựa, tiếng trống
trận uy linh, tiếng loa, tiếng cười,…Nó từng in dấu những vinh quang, nhưng nó
cũng thấm đẫm vị mặn của mồ hôi, của nước mắt, của những ngày nâng nhau cùng
đứng dậy.
Khởi đầu một năm mới đầy biến động,
trước anh linh người vừa khuất tôi xin được dâng lên lời cầu nguyện. Nguyện cho
mỗi chúng ta từ nay sẽ không là kẻ vô can và ngưng đóng vai khán giả. Bởi tất cả
chúng ta dù đang ở vị trí nào hay sinh sống ở nơi đâu đều gắn kết cùng nhau
chung một số mệnh – Số mệnh của dân tộc Việt Nam.
17/02/2020
No comments:
Post a Comment