Kính thưa quý thính giả, lịch sử Việt Nam thời cận đại ghi lại nhiều
vị tướng đã tuẫn tiết khi thành thất thủ theo quan niệm “Sinh vi tướng,
tử vi thần”. Trong số đó có một vị tướng trấn thủ thành Hà Nội, khi
thành thất thủ ông đã hy sinh tuẫn tiết. Qua chuyên mục Danh Nhân Nước
Việt tuần này, chúng tôi xin gửi đến quý thính giả bài “Tổng Đốc Hoàng
Diệu” của Việt Thái qua giọng đọc của Tam Thanh và Minh Nguyệt để kết
thúc chương trình phát thanh tối hôm nay.
Việt Thái
“Thử thành quách, thử giang sơn, bách chiến phong trần dư xích địa,
Vi nhật tinh, vi hà nhạc, thập niên tâm sự vọng thanh thiên.”
Đó là hai câu đối nói về Hoàng Diệu trong đền Trung Liệt tại gò Đống Đa.
Vi nhật tinh, vi hà nhạc, thập niên tâm sự vọng thanh thiên.”
Đó là hai câu đối nói về Hoàng Diệu trong đền Trung Liệt tại gò Đống Đa.
Tạm dịch:
Kia thành quách, kia non sông, trăm trận phong trần còn thước đất,
Là trời sao, là sông núi, mười năm tâm sự với trời xanh.
Hoàng Diệu tên thật là Hoàng Kim Tích, về sau mới đổi là Hoàng Diệu, tự là Quang Viễn, hiệu Tỉnh Trai. Ông sinh ngày 10 tháng 2 năm Mậu Tý (năm 1828), trong một gia đình có truyền thống nho giáo tại làng Xuân Đài, huyện Diên Phước, tỉnh Quảng Nam (nay là huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam). Gia đình ông có 7 anh em đều nổi tiếng là những người thông minh trong vùng.
Sử chép, gia đình Hoàng Diệu có một người đỗ Phó bảng, ba người đỗ Cử nhân, hai người đỗ Tú tài trong các kỳ thi dưới thời vua Tự Đức.
Trong các anh em, Hoàng Diệu là người nổi bật nhất, năm Mậu Thân (1848) lúc 20 tuổi đã đỗ Cử nhân cùng với anh trai Hoàng Kim Giám trong khoa thi Hương tại Thừa Thiên. Năm 25 tuổi, ông đỗ Phó bảng khoa Quý Sửu (1853), thời vua Tự Đức.
Năm 1851, ông được vua Tự Đức bổ nhiệm làm Tri huyện Tuy Phước, thăng lên Tri phủ Tuy Viễn (Bình Định).
Năm 1868, Hoàng Diệu ra Bắc giữ các nhiệm vụ: Tri phủ Đa Phúc, Tri phủ Lạng Giang, Án sát Nam Định, Bố chánh Bắc Ninh. Trong 9 năm, ông lập nhiều công lớn trong việc dẹp trộm cướp an dân nên được dân chúng trong vùng quý mến.
Năm 1873, ông được triệu về kinh đô Huế giữ các chức vụ Tham tri bộ Hình, Tham tri bộ Lại kiêm Đô Sát Viện.
Năm 1878, đổi làm Tuần phủ Quảng Nam, thăng Tổng đốc An Tĩnh (Nghệ An và Hà Tĩnh), nhưng vì Tổng đốc Nguyễn Chính vẫn còn lưu nhiệm nên ông ở lại Huế, làm Tham tri bộ Lại. Chẳng bao lâu sau, ông được sung chức Phó Toàn quyền, làm Đại Thần đàm phán với Sứ thần Tây Ban Nha trong một hiệp ước giao thương.
Năm 1873, sau khi chiếm được Nam Bộ, Pháp chuẩn bị tiến ra Bắc Bộ. Vua Tự Đức giao phó cho Hoàng Diệu làm Tổng đốc Hà Ninh, sau đó giữ chức Thượng thư bộ Binh.
Biết rõ dã tâm xâm lược của thực dân Pháp, ngay khi tới Hà Nội, Tổng đốc Hoàng Diệu đã chú tâm tới việc xây dựng thành lũy chuẩn bị lực lượng để chống Pháp. Từ năm 1880 đến 1882, ông đã đôi ba lần dâng sớ xin triều đình chi viện để củng cố phòng tuyến chống giặc tại Hà Nội, nhưng không nhận được hồi âm từ Huế.
Rạng ngày 25 tháng 4 năm 1882, quân Pháp cho 4 tàu chiến bắn đại bác yểm trợ cho 450 người và một số thân binh đổ bộ chiếm thành Hà Nội, nhưng gặp phải sự kháng cự quyết liệt nên phải rút quân.
Trong lúc chiến sự diễn ra khốc liệt thì kho thuốc súng trong thành Hà Nội nổ tung, dẫn tới đám cháy lớn làm cho quân sĩ hoang mang. Quân Pháp thừa cơ, phá được cửa Tây thành Hà Nội.
Trong tình thế tuyệt vọng, Tổng đốc Hoàng Diệu vẫn tiếp tục chỉ huy quân sĩ chiến đấu. Cuối cùng, biết không thể giữ được thành, ông đã ra lệnh cho quân sĩ tan hàng để tránh thương vong, một mình vào hành cung, thảo tờ di biểu, sau đó ra trước Võ miếu dùng khăn bịt đầu thắt cổ tự tử, hưởng dương 54 tuổi.
* * *
Từ khi Hà thành thất thủ và Tổng đốc Hoàng Diệu tuẫn tiết, phong trào kháng chiến chống giặc Pháp bắt đầu lan tràn trên toàn quốc, cái chết oanh liệt của Tổng đốc Hoàng Diệu trở thành tiếng chuông đánh động lòng yêu nước trong giới sĩ phu để mở ra cuộc kháng chiến cứu nguy tổ quốc. Hàng trăm ngàn người đã nằm xuống suốt thời gian giặc Pháp đô hộ, với hàng chục nhóm nghĩa quân hay tổ chức đấu tranh ra đời trước khi có đảng cộng sản VN.
Điều đáng buồn là những hy sinh to lớn đó của họ đã bị quên lãng sau khi Việt Minh cướp được chính quyền vào năm 1945. Thê thảm hơn nữa là hàng chục ngàn con dân yêu nước không chết dưới họng súng của thực dân Pháp, mà họ lại bị đảng cộng sản VN, núp dưới chiêu bài Việt Minh, tàn sát hay thủ tiêu để độc chiếm quyền lực suốt 9 năm.
Và cho đến hôm nay, hàng triệu con dân thiệt mạng trong cuộc chiến quốc – cộng kéo dài 21 năm, đất nước VN chỉ độc lập trên lý thuyết, trong thực tế là một chư hầu của Trung Cộng, với lãnh thổ và lãnh hải đã và đang bị tập đoàn cộng sản VN dâng nhượng cho phương Bắc. Và nếu so sánh với quân dân tử thủ thành Hà Nội, dưới sự chỉ huy của Tổng đốc Hoàng Diệu, thì quân đội VN hôm nay chỉ là một con “hổ giấy”, chỉ biết “bám bờ” trong khi ra rả kêu gọi ngư dân phải “bám biển” để trở thành những con mồi béo bở của giặc Tàu đang hoành hành ngoài Biển Đông.
Nếu sống lại, chắc chắn Tổng đốc Hoàng Diệu sẽ phải đau lòng khi nghe quân đội cộng sản VN ra rả tự xưng là “bách chiến bách thắng”!
No comments:
Post a Comment