Thưa quý thính giả, ngoài ý đồ bán nước công khai trắng trợn
qua Dự Luật Đặc Khu Kinh Tế, đảng CSVN còn bán nước kín đáo hơn bằng
cách cho sử dụng đồng Nhân Dân Tệ thay vì Mỹ Kim, trong giao dịch thương
mại với TQ.
Mời quý thính giả đài ĐLSN nghe phần Bình Luận của Châu Minh Dũng với tựa đề: “Trung Quốc đang thu tóm Việt Nam qua chiến thuật ‘Tằm ăn dâu’ và ‘Sự đã rồi’” sẽ được Song Thập trình bày để kết thúc chương trình phát thanh tối hôm nay.
Mời quý thính giả đài ĐLSN nghe phần Bình Luận của Châu Minh Dũng với tựa đề: “Trung Quốc đang thu tóm Việt Nam qua chiến thuật ‘Tằm ăn dâu’ và ‘Sự đã rồi’” sẽ được Song Thập trình bày để kết thúc chương trình phát thanh tối hôm nay.
Chiến thuật “tằm ăn dâu” và “sự đã rồi” là 2 thủ đoạn ưa dùng của
lãnh đạo Bắc Kinh để thỏa mãn cơn khát mở rộng lãnh thổ. Biển Đông là
khu vực nhiều lần chứng kiến Trung Quốc sử dụng 2 thủ đoạn này. Tuy
nhiên, thực tế là chính các vùng, miền trên khắp đất nước Việt Nam lại
là các nơi Trung Quốc đã và đang ráo riết áp dụng “tằm ăn dâu” và “sự đã
rồi”, tạo nên nguy cơ rất lớn với chủ quyền Việt Nam.
Chiến thuật “tằm ăn dâu”, đúng như tên gọi của nó, là duy trì một
loạt các hành động lấn tới ở biên độ nhỏ, giống như loài tằm ăn lá dâu,
từ từ, chậm rãi nhưng liên tục. Đến lúc thích hợp, một loạt các tác động
nhỏ lẻ được tập hợp, tích lũy sẽ tạo nên tác động, chuyển biến có tính
chiến lược. Còn “sự đã rồi” là chiến thuật đi kèm để bảo đảm hiệu quả và
duy trì đà tiến của “tằm ăn dâu”, giúp cho “tằm ăn dâu” hầu như không
thể bị hoàn tác.
Đối với Biển Đông, “tằm ăn dâu” được áp dụng qua cách Trung Quốc liên
tục huy động cảnh sát biển và “dân quân trên biển” để gây hấn và đe dọa
các tàu dân sự của các nước khác. Bắc Kinh còn tạo “sự đã rồi” qua việc
bồi đắp, củng cố, tăng cường vũ trang hệ thống căn cứ trên các đảo nhân
tạo, để các nước có phản đối cũng không làm gì được, trừ khi chính thức
tuyên chiến.
Biển Đông là khu vực đứng giữa các tranh chấp quốc tế, nên các diễn
biến “tằm ăn dâu” và “sự đã rồi” của Trung Quốc được các nước quan sát
và tường thuật rất kỹ. Tuy nhiên, chuyện xảy ra trên đất liền Việt Nam
lại là chuyện hầu như của nội bộ người Việt, nên ít được nhắc tới, dù
thực tế diễn tiến “tằm ăn dâu” và “sự đã rồi” của Trung Quốc trong lãnh
thổ Việt Nam còn dữ dội hơn ở ngoài Biển Đông. Các thủ đoạn này được
Trung Quốc áp dụng ở cả các vùng biên giới, các khu vực hiểm yếu có ý
nghĩa quân sự, thậm chí cả các khu dân cư dọc theo đất nước Việt Nam và
được che giấu cẩn thận bởi chính sự tiếp tay của lãnh đạo và bộ máy
tuyên truyền của chế độ cộng sản Việt Nam.
Ngày 28/8/2018, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố thông
tư cho phép người dân sống ở vùng biên giới Việt – Trung được giao dịch
bằng đồng nhân dân tệ của Trung Quốc, sẽ chính thức có hiệu lực từ ngày
12/10/2018. Sự việc có vẻ như đơn giản nhằm “góp phần hoàn thiện chính
sách thanh toán biên mậu, thúc đẩy hoạt động thương mại biên giới giữa
hai nước Việt – Trung”, nhưng thật ra chứa đựng những toan tính rất hiểm
độc kiểu “tằm ăn dâu” và “sự đã rồi”, và được tiếp tay bởi chính lãnh
đạo cộng sản Việt Nam. Quá trình xâm lấn ở vùng biên giới được khởi động
bằng làn sóng “phủ đầu” của quyền lực mềm là tiền tệ.
Điều kỳ lạ là chưa đầy một tháng trước đây, ngay trong bộ máy tuyên
truyền của chế độ cộng sản Việt Nam đã có tiếng nói cảnh báo rủi ro với
chủ quyền bởi hoạt động “xâm lăng” tiền tệ.
Người dân có quyền đặt câu hỏi, phải chăng sự tùy tiện sửa đổi này là
dấu hiệu của sự lệ thuộc ngày càng nặng nề của Hà Nội vào Bắc Kinh, đến
mức các lãnh đạo Việt Nam không dám (hoặc không thể) phản đối công khai
nữa, mà chỉ có thể đưa ra các quyết định vì quyền lợi của người Trung
Quốc?
Cần lưu ý, không phải chỉ đến sự kiện hợp thức hóa giao dịch bằng
nhân dân tệ ở các tỉnh biên giới, người Việt mới dần mất chủ quyền ở khu
vực này. Trước đó, Trung Quốc đã chiếm được toàn bộ thác Bản Giốc. Hơn 6
năm trước, trả lời phỏng vấn VOA, nhà nghiên cứu Mai Thái Lĩnh cho
biết: Bằng việc chiếm thác Bản Giốc, Trung Quốc sở hữu luôn một dải đất
chạy dài từ cồn Pò Thoong cho đến chân thác, nghĩa là mở được đường
xuống vùng thung lũng sông Quây Sơn ở phía trên thác, một lợi thế quân
sự đáng lưu ý trong tình huống xảy ra chiến tranh.
Nhờ sự trợ giúp tận tình của các lãnh đạo cộng sản Việt Nam, Trung
Quốc còn triển khai nhân lực ở không ít các khu vực hiểm yếu trên lãnh
thổ Việt Nam. Cuối năm 1974, đầu năm 1975, trong quá trình bức tử chính
quyền Việt Nam Cộng Hòa, tướng lĩnh chế độ Bắc Việt nhận định rằng Tây
Nguyên là mục tiêu chiến lược bởi vai trò “nóc nhà Đông Dương”, thì đến
năm 2009, Trung Quốc đưa được người vào Tây Nguyên mà không mất một viên
đạn, dưới danh nghĩa công nhân của dự án khai thác bauxite.
Các dự án có dấu tay “bạn vàng” như nhà máy thép Formosa ở cảng Vũng
Áng, Hà Tĩnh, cụm nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân ở huyện Tuy Phong, Bình
Thuận, nhà máy Bột giấy Phương Nam ở Long An… đều là các chiến thuật
“tằm ăn dâu” để người Trung Quốc từ từ gặm nhấm lãnh thổ Việt Nam, cũng
như tạo ra gánh nặng kinh tế và rủi ro môi trường để làm suy yếu người
Việt.
Vòng vây mà Trung Quốc thiết lập nhằm thu tóm lãnh thổ Việt Nam đã và đang hiện hữu trên cả nước và đang ngày càng khép chặt.
Sau một thời gian người Trung Quốc tràn vào lãnh thổ Việt Nam, dưới
danh nghĩa “công nhân” làm ở các nhà máy, dự án có bóng dáng Trung Quốc,
hoặc “khách du lịch” qua các “tour 0 đồng”, nay các lãnh đạo cộng sản
Việt Nam đã bắt đầu hợp thức hóa việc giao dịch bằng tiền Trung Quốc.
Có vẻ như tất cả những gì đang diễn ra trên cả nước hiện nay đều phù
hợp với quá trình đẩy Việt Nam phụ thuộc vào Trung Quốc, đến mức gần như
không thể thoát ra. Viễn cảnh đất nước bị Bắc thuộc thêm một lần nữa
tưởng chừng rất xa, nhưng hóa ra lại rất gần./.
Châu Minh Dũng
No comments:
Post a Comment