Thứ Hai, ngày 20.05.2013
Tiến trình dân chủ hóa tại Việt Nam
là bất khả vãn hồi. Nguyễn Phú Trọng và phe nhóm đang cố gắng tuyệt
vọng đi ngược ý dân và ngược giòng lịch sử. Mời quý thính giả nghe phần
Bình Luận của Nguyễn Hưng Quốc với tựa đề: "Bao giờ Việt Nam có dân
chủ?" sẽ được Song Thập trình bày để kết thúc chương trình phát thanh
tối hôm nay.
Mỗi lần gặp bạn bè hay người quen, trong các cuộc nói chuyện gẫu, đề
tài tôi thường nghe nhất là chuyện chính trị Việt Nam và trong đề tài
ấy, câu hỏi tôi thường nghe nhất là: Bao giờ thì chế độ toàn trị sụp đổ
và/ hoặc bao giờ thì Việt Nam có dân chủ? Nếu câu hỏi trực tiếp nhắm vào
tôi, không thể im lặng được, câu trả lời của tôi bao giờ cũng là: Không
biết.
Mà thật ra thì không ai biết cả. Giới phân tích chính trị không biết,
đã đành. Ngay cả giới làm chính trị, đặc biệt những người đang nắm
quyền ở các quốc gia lớn, với đầy tin tức tình báo trong tay, cũng không
thể biết được. Nếu chính trị là một nghệ thuật của cái khả dĩ (politics
is an art of the possible) như Otto Von Bismarck đã nói, việc tiên đoán
một cách chính xác các diễn biến chính trị gần như là một điều bất khả.
Liên quan đến Việt Nam, có mấy điều chúng ta có thể biết chắc chắn là:
Thứ nhất, thế nào Việt Nam cũng có dân chủ. Vấn đề chỉ là thời gian.
Dân chủ là xu hướng chung của cả nhân loại. Trong vòng bốn mươi năm vừa
qua, đã có trên 80 quốc gia từ toàn trị tiến dần đến dân chủ, hoặc hoàn
toàn dân chủ hoặc chỉ một phần dân chủ. Lý do cũng rất dễ hiểu:
* Một: Chế độ toàn trị, chuyên chế và độc tài nào cũng sớm già cỗi và
mục nát. Ở các chế độ dân chủ, việc tuyển chọn giới lãnh đạo thay đổi
theo nhiệm kỳ, hết người này đến người khác, giống như cơ thể thường
xuyên được thay máu, hơn nữa, họ được dân chúng chọn lựa qua các cuộc
bầu cử tự do nên ít nhiều đều xứng đáng: Nếu họ không phải là lãnh tụ
giỏi nhất trong lịch sử thì ít nhất cũng là người giỏi nhất trong những
người cùng chạy đua với họ, nghĩa là những người thuộc thế hệ của họ. Ở
các nước độc tài thì khác: Họ được chọn lựa chủ yếu theo tiêu chuẩn hoặc
dòng tộc hoặc phe nhóm. Không có gì đáng ngạc nhiên khi thấy, dưới các
chế độ độc tài, giới lãnh đạo càng lúc càng yếu kém. Nhìn vào đảng Cộng
sản Việt Nam thì thấy ngay. Trong giới lãnh đạo, những người thuộc thế
hệ đầu tiên, từ Hồ Chí Minh đến Lê Duẩn và Trường Chinh đều ít nhiều có
khả năng; từ Nguyễn Văn Linh trở đi, càng ngày họ càng kém. Đỗ Mười kém.
Lê Khả Phiêu càng kém. Nông Đức Mạnh lại càng kém. Nguyễn Phú Trọng
không hề chứng tỏ là khá hơn Nông Đức Mạnh. Giới lãnh đạo già cỗi không
phải vì càng ngày càng kém tài mà còn vì họ rất dễ sa vào tham nhũng. Và
vì cả hai lý do ấy, càng ngày họ càng xa rời quần chúng. Càng xa rời
quần chúng, họ lại càng trở thành yếu ớt.
* Hai: Mặc dù chúng ta không thể biết được lúc nào Việt Nam có dân
chủ, nhưng chúng ta cũng có thể biết quá trình dân chủ hoá ở một quốc
gia độc tài và nhỏ như Việt Nam thường xảy ra theo một trong ba trường
hợp.
- Thứ nhất là do áp lực từ bên ngoài. Trong bài "Bao nhiêu ý dân thì
đủ?", nhà văn Phạm Thị Hoài kể bản Hiến pháp ở Đức năm 1949 được soạn
thảo dưới sự giám sát ngặt nghèo của các Thống đốc Quân sự Anh, Pháp và
Mỹ. Bản Hiến pháp năm 1946 (bổ sung năm 1947) của Nhật lại càng đặc
biệt: Lúc ấy chiến tranh thế giới lần thứ hai vừa kết thúc, Nhật nằm
dưới sự cai quản của Lực lượng Đồng minh. Tướng Douglas MacArthur, người
chỉ huy lực lượng đồng minh, đã ra lệnh cho nhóm tuỳ viên của ông soạn
thảo bản Hiến pháp cho Nhật thời hậu chiến.
- Thứ hai là sự xuất hiện của một Gorbachev, nghĩa là một nhà lãnh
đạo sáng suốt, can đảm, biết nghĩ đến tương lai của đất nước hơn là
những quyền lợi trước mắt của bản thân hoặc của đảng phái mình.
Chúng ta có thể hy vọng, nếu ở Việt Nam xuất hiện một lãnh tụ giống
Gorbachev, vận mệnh của Việt Nam chắc chắn sẽ đổi khác hẳn. Đó là sự
thay đổi từ bên trong. Trong nội bộ đảng Cộng sản.
- Thứ ba là sự xuất hiện của một cái gì tương tự như mùa xuân Ả Rập
(Arab Spring), tức sự nổi dậy của quần chúng đã làm sụp đổ hàng loạt các
chế độ độc tài kéo dài cả mấy chục năm ở Tunisia, Ai Cập, Libya và
Yemen và làm lung lay nhiều chế độ chuyên chế khác ở Syria, Algeria,
Jordan, Kuwait và Sudan.
Phân tích ba trường hợp trên, chúng ta có thể đoán, dĩ nhiên một cách mơ hồ, quá trình dân chủ hoá tại Việt Nam.
Đầu tiên, chúng ta cần loại trừ ngay trường hợp thứ nhất. Việt Nam
hiện nay không có chiến tranh và nếu có chiến tranh, có lẽ chỉ có chiến
tranh với Trung cộng. Dù thắng hay thua trận, cũng sẽ không có một siêu
cường dân chủ nào giúp Việt Nam viết lại hiến pháp để thừa nhận chế độ
dân chủ cả như những gì đã xảy ra tại Đức hoặc tại Nhật sau Đệ nhị Thế
chiến.
Trường hợp thứ hai có thể sẽ xảy ra, nhưng nếu xảy ra, cũng không hy
vọng gì thành công. Lý do chính: chắc chắn Trung cộng sẽ can thiệp. Khi
Trung cộng chưa chấp nhận dân chủ trong nước họ, chắc chắn họ cũng sẽ
không thể chấp nhận việc đảng cộng sản Việt Nam tự giải thể hoặc cho
phép sự xuất hiện của các đảng phái đối lập để dân chủ hóa trước Trung
cộng
Trường hợp thứ ba, sự nổi dậy của dân chúng, tránh được nguy cơ can
thiệp của Trung cộng. Trung cộng có thể trấn áp một lãnh tụ muốn cải
cách triệt để nhưng chắc chắn không thể và không dám can thiệp để trấn
áp quần chúng Việt Nam đang xuống đường đòi dân chủ. Nhưng lúc nào ở
Việt Nam mới có một cuộc nổi dậy dữ dội như ở Tunisia, Ai Cập, Yemen và
Libya? Không ai có thể biết được. Nhưng tiền đề đã có: "Sự bất mãn của
quần chúng". Sự bất mãn ấy vốn thường âm ỉ sôi sục dưới mọi chế độ độc
tài, kể cả ở Việt Nam. Vấn đề là cần có một mồi lửa để làm cho sự bất
mãn ấy bùng nổ.
Đối với trường hợp thứ hai, điều kiện của dân chủ ở Việt Nam là một
nền dân chủ ở Trung cộng; đối với trường hợp thứ ba, điều kiện của dân
chủ là: một, cách suy nghĩ mang tính chiến lược của những người đấu
tranh cho dân chủ; và hai, một tình huống bất ngờ, với những hình ảnh cụ
thể, có thể gây phẫn nộ trong quần chúng. Như những mồi lửa.
Nguyễn Hưng Quốc
No comments:
Post a Comment